Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2012

Tam Quốc Chí - Bài Ca Mở Ðầu


 

Tam Quốc Chí

Bài Ca Mở Ðầu  

                 (Và cũng là bài ca kết thúc)  
 
          Sông dài cuồn cuộc ra khơi ,
         Anh hùng : sóng dập, cát vùi thiên thu...
        Dở hay, thành bại nào đâu ?
            Bể dâu chớp mắt , nghoảnh đầu thành mơ !
    Non xanh còn đó trơ trơ ,
  Tà dương lần lửa sưởi hơ ánh hồng .
     Lão tiều gặp lại ngư ông ,
         Bên sông gió mát , trăng trong , kho trời .
         Rượu vò lại rót khuyên mời ,
  Cùng nhau lại kể chuyện thời xa xưa...
     Kể ra biết mấy cho vừa ?
Nói cười hỉ hả , say sưa quên đời... 







Hồi 01 - Tam Quốc Chí - La Quán Trung

Hồi Thứ Nhất   -    Tam Quốc Chí   -   La Quán Trung

Hội Ðào Viên Anh Hùng Kết Nghĩa
Ðánh Huỳnh Cân Hào Kiệt Lập Công 

Phàm thế cuộc trong thiên hạ (1), chia rồi lại hợp, hợp rồi lại chia. Tỷ như nhà Châu mất vận, bảy nước phân tranh, sau đó nhà Tần lại gồm thâu về một mối. Rồi khi nhà Tần bị diệt vong, để cho Hán, Sở tranh hùng, và cuối cùng Hán đã diệt Sở để thu về một mối.
Nhà Hán kể từ vua Cao Tổ là Lưu Bang trảm xà khởi nghĩa thống nhất được thiên hạ, giữ lấy ngai vàng cho Ðến khi vua Quang Vũ là Lưu Tú quật khởi, giết loạn thần là Vương Mãng, phục hưng cho nhà Hậu Hán (2), rồi truyền Ðến đời vua Hiến Ðế thì bị chia làm ba nước. Cái nguyên do rối loạn sau này là do tới hai ông vua Hoàn Ðế và Linh Ðế.
Vua Hoàn Ðế giam cầm các bề tôi trung trực, lại tin dùng bọn hoạn quan, làm cho thế nước bị suy vi. Khi vua Hoàn Ðế băng hà, vua Linh Ðế lên nối ngôi, có quan Ðại Tướng Quân Ðậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp việc trị nước. Hai vị tôi thần nầy vốn một lòng trung nghĩa, nhưng bên cạnh lại có bè lũ hoạn quan Tào Tiết chuyên quyền làm bậy. Ðậu Vũ và Trần Phồn lập mưu tru diệt bọn này để trừ tai họa cho nước, chẳng may cơ mưu bị bại lộ, hai vị tôi thần nầy đều bị chúng hãm hại.
Từ đó, bọn hoạn quan càng lộng quyền, chúng liên kết với loạn thần tác yêu, tác quái.
Năm Kiến Ninh thứ hai (niên hiệu của vua Linh Ðế), tháng tư ngày rằm, nhà vua ngự ra điện Ôn Ðức, vừa ngồi xuống ngự ỷ, bỗng có một trận cuồng phong rất lớn nổi lên, rồi một con rắn xanh to tướng từ trên sà ngang cung điện rơi xuống nằm ngang trên ngự ỷ. Vua thất kinh ngã lăn ra bất tỉnh, các quan hầu cận phải đưa vua vào nội cung cứu cấp.
Nhưng chỉ trong giây lát, con rắn biến đi đâu mất, trời lại nổi lên một trận cuồng phong dữ dội, mưa tuôn như trút nước. Kế đó, mưa đá lại rơi theo tới hơn nửa ngày, nhà cửa bị hư sập vô số.
Vào tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư, kinh đô Lộc Dương lại bị động đất, rồi nước biển dâng lên tràn ngập cả một miền duyên hải. Dân cư, làng mạc, của cải bị sóng cuốn ra khơi mất tích.
Cũng vào đời vua Linh Ðế, vào năm Quang Hòa thứ nhất, tại một vùng thôn dã, có một con gà mái hóa gà trống, rồi đến ngày mồng một tháng sáu, một luồng hắc khí dài hơn mười trượng bay thẳng vào điện Ôn Ðức.
Cũng vào mùa thu năm đó, trước nhà Ngọc Ðường bỗng hiện lên một cầu vồng sáng chói. Sườn núi Ngữ Nguyên bị sụp lở, đất đá đè chết người.
Chỉ trong thời gian mấy năm mà không biết bao nhiêu sự việc ly kỳ xảy ra. Vua buồn bã hạ chiếu hỏi các quan triều thần tới sao có những hiện tượng quái gở như vậy?
Quan Nghị Lang Thái Ung dâng sớ tâu, đại ý nói: "Rắn sa, gà mái hóa gà trống là điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước..."
Lời tâu rất thống thiết, khiến nhà vua xem xong cũng phải não lòng. Vua chỉ thở dài rồi quay vào thay áo.
Bấy giờ Tào Tiết đứng núp đằng sau vua, xem trộm được tờ biểu, thấy thế tức giận vô cùng, liền bàn mưu với bè đảng của hắn, lập kế gieo tội cho Thái Ung, và cách chức đuổi Thái Ung về làm thứ dân nơi điền lý.
Sau đó bọn Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng, tất cả mười người họp nhau xưng là "Thập Thường Thị" chuyên làm điều gian ác.
Vua Linh Ðế lại nhu nhược, tin dùng Trương Nhượng như một kẻ tôi trung, việc triều chính đều giao cho Trương Nhượng quyết đoán, Ðến nỗi kêu Trương Nhượng bằng "Á phụ".
Triều đình càng bê tha thối nát, lòng người muốn nổi loạn, giặc giã khắp nơi dấy loạn lên như ong vỡ tổ.
Bấy giờ, tại quận Cự Lộc có ba anh em họ Trương là Trương Giác, Trương Bảo, và Trương Lương. Trương Giác thi hỏng Tú Tài, không quản đèn sách nữa, ngày ngày vào núi hái thuốc. Bỗng một hôm, Trương Giác gặp một ông lão mặt đỏ như hài đồng, mắt xanh như nước biếc, tay chống gậy lê, kêu Trương Giác vào một hang núi, rồi trao cho ba quyển "thiên thư" và dặn:
- Ðây là bộ "Thái bình yêu thuật" ta ban cho con để học. Học được sách này, con phải thay trời mà tuyên hóa, cứu dân độ thế. Còn nếu manh tâm đổi dạ thì sẽ gặt lấy quả báo không nhỏ.
Trương Giác tiếp lấy Thiên thư, bái tạ rồi yêu cầu xin được biết tên ông lão. Ông lão nói:
- Ta chính là Nam Hoa Lão Tiên đây.
Dứt lời hóa thành luồng gió mát bay đi mất.
Trương Giác được bộ sách ấy, ngày đêm tập luyện, chẳng bao lâu đã biết cách kêu mưa gọi gió, và tự xưng hiệu là "Thái Bình đạo nhân".
Vào tháng giêng năm Trung Bình thứ nhất (cũng đời vua Linh Ðế), có bệnh thời khí nổi lên, lan rộng khắp vùng. Trương Giác đem bùa phép đi trị bệnh cho dâng gian, lấy hiệu là "Ðại Hiền lương sư". Lúc đó Trương Giác lại có dạy thêm được hơn năm trăm đồ đệ, cũng học rành phép bùa chú, nên cả thầy trò chia nhau vân du khắp nơi.
Thấy việc chữa bệnh của Trương Giác có hiệu quả, thiên hạ đồn ầm lên, và rủ nhau theo làm đồ đệ của Trương Giác mỗi ngày một đông thêm.
Trương Giác đem tất cả tín đồ trong thiên hạ chia ra làm ba mươi sáu phường, mỗi phường có hơn một vạn người, và có cử một viên Cừ Soái để cai quản. Rồi Trương Giác lại tự xưng mình là Tướng Quân, coi cả ba mươi sáu phường đó.
Chưa hết, Giác còn phao ngôn để mê hoặc dân chúng rằng: "Trời xanh đã chết, trời vàng nên lên thay. Ðến năm Giáp Tý, thiên hạ đại cát".
Giác lại truyền cho các tín đồ dùng đất sét trắng viết lên nơi cửa lớn hai chữ "Giáp Tý", và dân cư khắp tám châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, ai muốn được hưởng phước phải viết danh vị "Ðại Hiền lương sư Trương Giác" mà thờ.
Trương Giác đã có ý làm phản, nên mật sai đồ đệ là Mã Nguyên Nghĩa đem vàng bạc gấm vóc vào triều lo lót với tên hoạn quan Phong Tư, để nhờ tên này làm nội ứng.
Trương Giác lại bàn với hai người em rằng:
- Cái khó đạt nhất là lòng dân. Nay dân đã thuận theo mình rồi, nếu không thừa cơ đoạt thiên hạ thì đáng tiếc lắm.
Rồi Trương Giác vội vã sắm cờ vàng, khăn vàng để hẹn ngày khởi sự. Giác sai một tên đệ tử là ựường Châu mang mật thư đưa cho Phong Tư, nhưng chẳng may Ðường Châu không thích hành động của Giác cho nên chạy thẳng vào tòa Thượng Thư cáo biến.
Thế là việc làm của Trương Giác bị bại lộ. Vua hay tin phản loạn liền triệu Ðại Tướng Quân Hà Tiến vào triều, truyền bắt Mã Nguyên Nghĩa đem chém, và hạ ngục cả gia quyến Phong Tư hơn ngàn người.
Trương Giác thấy vậy liền gấp rút khởi binh, tự xưng là Thiên Công Tướng Quân, phong cho Trương Bảo làm Ðịa Công Tướng Quân, Trương Lương làm Nhân Công Tướng Quân.
Giác lại rêu rao với bá tánh rằng: "Nay vận Hán đã hết, có đại thánh nhân xuất thế, ai nấy thuận trời theo chính, để hưởng thái bình an lộc."
Thế là khắp bốn phương có hơn bốn, năm mươi vạn người đội khăn Vàng hưởng ứng theo Trương Giác làm phản. Thế giặc rất mạnh, quan quân nghe gió đã chạy dài.
Hà Tiến liền tâu với vua cấp tốc sai sứ đến các Châu, Quận truyền lệnh phòng ngự, ngăn địch lập công. Ðồng thời sai Trung Lang Tướng Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, và Châu Tuấn dẫn ba đội tinh binh chia ra làm ba đường dẹp giặc.
Bấy giờ, giặc Khăn Vàng một đạo do Trương Giác cầm đầu, kéo thẳng đến U Châu xâm lấn. Quan Thái Thú châu này là Lưu Yên vốn dòng tôn thất ở đất Cảnh Lăng, vùng Giang Hạ, là con cháu Lỗ Cung Vương nhà Hán.
Lưu Yên thấy tình thế khẩn trương vội triệu quan Hiệu Úy Châu Tĩnh vào bàn kế.
Châu Tĩnh nói:
- Quân giặc đông như nước lũ, quân ta ít không thể nào ngăn nổi. Minh công nên gấp rút chiêu mộ nghĩa binh mới giữ nổi Châu này.
Lưu Yên nghe lời liền treo bảng khắp nơi chiêu mộ nghĩa binh.
Ngày kia, bản văn đưa đến Trác Huyện, dân chúng ra xem đông nghịt. Trong số dân chúng ấy có một vị anh hùng tánh tình khoan hòa, ít nói, mừng giận không lộ ra sắc mặt, nhưng lại có chí lớn, thường kết giao với các anh hùng, hào kiệt trong thiên hạ. Người này mình cao tám thước, hai tai lớn như chày, môi đỏ như thoa son, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Ðức, vốn cháu chắt Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu Thắng, tức dòng dõi vua Hiếu Cảnh Hoàng Ðế nhà Hán.
Nguyên trước kia, thời Hán Vũ Ðế, con trai Lưu Thắng là Lưu Trinh được phong tước Trác Lộc Ðình Hầu. Về sau, nhân một buổi tế tông miếu, Lưu Trinh vào dâng vàng hành lễ, chẳng may vàng sắc xấu, bị mất tước Hầu (3), và từ đấy con cháu mới có một chi dời về Trác Quận lập nghiệp.
Lưu Huyền Ðức tức là cháu Lưu Hùng, con Lưu Hoằng. Lưu Hoằng có thi đậu Hiếu Liêm, rồi làm chức Lại, nhưng mất sớm.
Huyền Ðức mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Tánh ham đọc sách, nhưng nhà nghèo, Huyền Ðức phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu để sinh sống. Nhà ông ở tới thôn Lâu Tang, phía Ðông Nam có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, đứng xa trông như một chiếc lọng vậy.
Ðã có nhiều người đi qua trông thấy câu dâu kỳ dị ấy, từng nói:
- Nhà này ắt sanh quý tử.
Lúc còn nhỏ, Huyền Ðức thường chơi đùa với trẻ con trong làng, và thường đứng dưới gốc cây dâu mà nói:
- Tao làm Thiên tử, nên ngự cỗ xe có lọng nầy!
Người chú là Lưu Nguyên Khởi nghe nói thường mắng:
- Cháu chỉ nói bậy.
Tuy vậy, Nguyên Khởi cũng nói rằng:
- Thằng bé này phải là một người phi thường mai sau.
Nhân thấy nhà Huyền Ðức nghèo, Lưu Nguyên Khởi tìm cách giúp đỡ để Huyền Ðức ăn học. Năm Huyền Ðức mười lăm tuổi, được mẹ cho đi du học, thụ giáo Trịnh Huyền và Lư Thực, lại kết bạn với Công Tôn Toản.
Ðến nay, Huyền Ðức đã được hai mươi tám tuổi, và ngày hôm ấy, khi đọc bản chiêu quân của Lưu Yên, Huyền Ðức cảm khái thở dài một tiếng.
Bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói lớn:
- Ðại trượng phu phải vì quốc gia mà ra sức, chứ than thở có ích gì?
Huyền Ðức quay đầu lại, thấy người vừa nói mình cao tám thước, mặt dữ như cọp, mắt ốc tròn xoe, hàm én râu hùm, tiếng nói rền như sấm. Biết không phải là người thường, Huyền Ðức liền hỏi thăm tên họ.
Người ấy đáp:
- Tôi họ Trương tên Phi, tự là Dực Ðức, ông cha mấy đời ở nơi Trác Quận nầy làm nghề bán rượu, mổ thịt, vì vậy tôi cũng có chú ít ruộng vườn, thích kết giao những anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, nay thấy ông xem bảng chiêu quân mà than thở nên hỏi thử một lời.
Huyền Ðức nói:
- Tôi vốn là người trong thân tộc nhà Hán, họ Lưu tên Bị, đáng lẽ trong lúc giặc "Khăn Vàng" dấy loạn cũng phải góp một phần cứu nước an dân, nhưng vì sức chưa làm được nên đau lòng than thở.
Trương Phi nói:
- Nhà tôi cũng có chút ít của cải, tôi muốn bỏ ra để tuyển mộ một đoàn hương dũng, rồi cùng ông cử đại sự, ông thấy có nên chăng?
Huyền Ðức rất mừng, nắm tay Trương Phi dắt vào trong quán rượu đàm đạo. Trong lúc hai người đang đối ẩm bàn thế sự thì bỗng thấy một đại hảo hán đẩy một chiếc xe để ngoài cửa rồi bước vào thét tửu bảo, nói:
- Ðem rượu thịt ra đây! Hôm nay ta uống say sưa cho một bữa để ngày mai đầu quân giết giặc.
Huyền Ðức liếc nhìn ra cửa thấy người này mình cao lớn chín thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt.
Biết người ấy cũng là một cái thế kỳ nhân, nên Huyền Ðức vội đứng dậy tiếp mời vào ngồi chung bàn và hỏi thăm danh tánh.
Người ấy đáp:
- Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Thọ Trường, sau đổi là Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh Hà Ðông. Nhân vì vùng tôi ở có một tên thổ hào ỷ thế hiếp đáp dân lành, tôi nổi giận giết chết nó rồi bỏ đi lánh nạn. Tôi phiêu bạt trong giang hồ đã hơn năm năm, nay nghe có giặc "Khăn Vàng" nổi lên khấy nhiễu, nên muốn đầu quân trừ giặc, cứu an bá tánh.
Huyền Ðức cũng đem chí nguyện của mình tỏ bày. Vân Trường mừng rỡ uống ba chung rượu rồi theo Huyền Ðức và Trương Phi dắt nhau về trang trại để bàn bạc.
Trương Phi nói:
- Muốn làm nên việc lớn, cốt nhất phải hiệp sức đồng tâm mới được. Sau nhà tôi có một vườn đào đang tiết hoa nở rất nhiều, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo trời đất, kết làm anh em.
Huyền Ðức và Vân Trường đồng thanh khen phải.
Ngày hôm sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng bày đủ lễ trong vườn đào. Ba người đứng trước hương án, vái mỗi người hai cái rồi cùng thề rằng:
"Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực, cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt."
Thề xong, ba người đem so tuổi nhau thì Huyền Ðức được làm anh cả, Vân Trường làm thứ, Trương Phi làm em út.
Trương Phi lại sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng đem mổ làm tiệc tới vườn đào, tập trung tất cả dũng sĩ trong vùng đến ăn uống. Dũng sĩ tề tựu có tới hơn ba trăm người, vui say một bữa thật no nê.
Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới, mọi việc tạm yên, chỉ hiềm một nỗi còn thiếu ngựa để cỡi.
Trong lúc đang lo tính, bỗng có một người chạy vào báo:
- Có hai người khách thương, cùng đoàn tùy tùng dẫn bầy ngựa khá đông, đang đi về hướng trang trại này.
Huyền Ðức nói:
- Ðây là trời giúp ta!
Ba anh em vội ra khỏi trại đón tiếp hai người khách thương mời vào trang trại.
Hai người này chính là hai thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người là Trương Thế Bình, một người là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống ngựa khỏe đem về Tràng An bán. Nay vì miền này có giặc nên không thể đem ngựa đi qua được.
Sau khi đã mời được hai vị khách thương vào trại, Huyền Ðức hối dọn tiệc đãi đằng, rồi đem ý muốn cứu dân độ thế của mình ra bày tỏ. Hai người khách thương vui lòng hiến cho năm mươi con ngựa khỏe, lại tặng thêm năm trăm lượng vàng bạc, một ngàn cân thép tốt để rèn binh khí và giáp trụ.
Khách cáo từ, Huyền Ðức tạ ơn tiễn chân vài dặm rồi trở về cậy thợ giỏi chế một đôi song cổ kiếm. Vân Trường cũng đánh một cây đại đao "Thanh long yểm nguyệt", gọi là "Lãnh diễm cứ" nặng tám mươi hai cân. Trương Phi rèn một cây trượng "Bát điểm cương mâu".
Ai nấy đều trang bị cương giáp, rồi kéo năm trăm quân hương dũng đến ra mắt quan Thái Thú Lưu Yên.
Lưu Yên hỏi đến danh tánh, ba anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Huyền Ðức còn nói cho Lưu Yên biết mình là tông phái Hoàng Gia. Lưu Yên mừng rỡ nhận Huyền Ðức làm cháu (So theo vai vế thì Lưu Yên thuộc vai chú bác).
Vào thành chưa được vài hôm thì đã có tin quân thám thính về báo:
- Tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí thống lãnh năm vớn quân kéo đến quấy nhiễu Trác Quận.
Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Ðức cùng năm trăm quân hương dũng đi trước phá giặc. Anh em Huyền Ðức không hề ngần ngại, lãnh quân tiền đạo trực chỉ đến chân núi Ðại Hưng, và trông thấy quân giặc cũng vừa kéo đến đó.
Huyền Ðức thúc ngựa ra trước trận, bên tả có Vân Trường, bên hữu có Trương Phi yểm hộ.
Huyền Ðức giơ roi thét mắng quân giặc:
- Phản loạn, đừng hòng múa rối, hãy xuống ngựa đầu hàng cho sớm.
Trình Viễn Chí nổi giận sai Phó Tướng Ðặng Mậu ra đánh. Ðặng Mậu vừa nhảy ra đã bị Trương Phi xông đến đâm một xà mâu trúng ngay giữa ngực, ngã lăn xuống ngựa.
Thấy Phó Tướng mình chưa ra tay đã bị hại rồi, Trình Viễn Chí liền múa đao đến đánh Trương Phi, nhưng Vân Trường đã vung Thanh Long Ðao cản lại. Uy lực của Vân Trường rất mạnh, Trình Viễn Chí kinh hãi run sợ, trở tay không kịp bị Vân Trường chém một đao đứt làm hai đoạn.
Người sau có thơ khen Vân Trường và Trương Phi như sau:
 
Anh hùng xuất trận buổi đầu tay,
Một thử xà mâu, một thử đao.
Khí tiết rạng ngời oai lực khét,
Chia ba thiên hạ rạng anh hào.
Quân giặc bị mất chủ tướng hoảng hốt chạy dài. Huyền Ðức xua quân đuổi đánh, chúng đầu hàng vô số.
Ðoàn quân đắc thắng kéo về thành được Lưu Yên thân hành ra tận bên ngoài tiếp đón và ủy lạo quân sĩ.
Sáng hôm sau, lại có tin giặc "Khăn Vàng" Ðến vây phá Thanh Châu, và quan Thái Thú Thanh châu là Cung Cảnh cho người sang cầu cứu. Lưu Yên liền cho mời Huyền Ðức đến thương lượng.
Huyền Ðức nói:
- Giặc cậy thế đông chia quân khuấy rối, nay U châu đã tạm yên, Bị này xin tình nguyện đem quân để cứu Thanh Châu.
Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh đem năm ngàn quân cùng ba anh em Huyền Ðức kéo đi.
Giặc thấy cứu binh tới liền chia làm ba đạo, bao vây rất ngặt. Huyền Ðức thấy mình ít quân quá, không thể nào cự nổi liền cho lệnh rút quân ngoài ba mươi dặm hạ trại. Ðoạn nói với Quan, Trương:
- Muốn phá giặc phải thi hành kỳ binh mới được.
Rồi chia cho Vân Trường một ngàn quân dọn ra phục bên tả nơi chân núi, Trương Phi cũng lãnh một ngàn quân phục bên hữu nơi chân núi.
Sáng hôm sau, Huyền Ðức cùng Châu Tĩnh dẫn quân gióng trống tiến đến trới địch. Quân giặc ra nghênh chiến, Huyền Ðức giả thua kéo quân chạy về.
Tưởng mình đắc thế, quân giặc ồ ạt đuổi theo. Khi đuổi đến chân núi, bỗng nghe mấy tiếng chiêng báo hiệu, hai toán quân phục của Vân Trường và Trương Phi đồng kéo ra một lượt đánh bộc hậu. Ðạo quân của Huyền Ðức quay lại tác chiến. Ba mặt đánh dồn, quân giặc đại bại, chết không biết bao nhiêu mà kể. Chúng bỏ kết cờ xí, mạnh ai nấy chạy. Huyền Ðức xua quân truy kích, đuổi đến thành Thanh Châu thì quan Thái Thú Cung Cảnh hay được tin thắng trận vội mở cửa thành thúc quân tràn ra tiếp ứng.
Nhờ đó mà Thanh Châu được giải vây, quân giặc tản mác hết. Người sau có thơ khen Huyền Ðức:  
Mưu hay tỏ rõ sức thần công,
Hai cọp suy ra kém một rồng.
Gặp lúc cô cùng, người mới rõ,
Tam phân thiên hạ, xứng anh hùng
Cung Cảnh đón tiếp ba anh em Huyền Ðức và Châu Tĩnh vào thành bày tiệc khao thưởng ba quân. Tiệc xong, Châu Tĩnh muốn trở về U Châu, Huyền Ðức nói:
- Gần đây, nghe quan Trung Lang Tướng Lư Thực đánh nhau với Trương Giác, chúa giặc Khăn Vàng tới Quảng Tôn. Bị tôi xưa đã từng theo học Lư tiên sinh, nay muốn đến đó giúp ân sư một phen.
Châu Tĩnh bằng lòng, dẫn quân trở về một mình. Ba anh em Huyền Ðức đem năm trăm quân bản bộ thẳng đến Quảng Tôn, vào dinh ra mắt Lư Thực, và nói rõ ý kiến mình tình nguyện phá giặc. Lư Thực mừng lắm, lưu ba anh em Huyền Ðức dưới trướng để đợi lệnh.
Bấy giờ, Trương Giác có hơn mười lăm vạn quân, chia ra quấy nhiễu nhiều chỗ. Phần Trương Giác thì giữ năm vạn, đang cầm cự tới Quảng Tôn, chưa phân thắng bại.
Lư Thực bảo Huyền Ðức:
- Nay Trương Giác bị ta vây ở đây chưa thể làm gì được, nhưng hai người em của nó là Trương Lương, Trương Bảo đang quấy rối ở Dĩnh Xuyên, đối trận với Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn. Nếu quân giặc ở Dĩnh Xuyên mà thắng thế được thì nơi đây ắt bị nguy hiểm. Vậy ngươi hãy dẫn binh mã bản bộ, và thêm một ngàn quân ta cấp, đến Dĩnh Xuyên dò thám tình hình, sau sẽ hẹn ngày cùng đánh.
Huyền Ðức lĩnh mệnh, kéo quân đi suốt ngày đêm mới đến Dĩnh Xuyên.
Bấy giờ Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn đang đánh nhau với quân giặc. Giặc núng thế phải rút lui vào Trường Xã, dựa thế một rừng lau rậm rạp để lập doanh trại.
Hoàng phủ Tung bàn với Châu Tuấn:
- Giặc tuy đông, nhưng khờ khạo. Chúng lập doanh trại trong rừng lau, vậy ta nên dùng hỏa công mà đốt.
Liền đó Hoàng Phủ Tung ra lệnh cho quân sĩ mỗi người đem theo một bó cỏ khô kéo đi mai phục. Ðêm ấy gặp gió lớn, quân Hán nhất tề phóng hỏa đốt trại. Giữa lúc đó Hoàng phủ Tung và Châu Tuấn dẫn hai ngàn kỵ binh xông vào chém giết. Trại giặc lửa cháy ngợp trời, quân giặc hoảng hốt không kịp mặt giáp lên yên, bỏ chạy tứ tán.
Quân Hán chém giết cho đến lúc trời mờ sáng thì mới thấy Trương Lương, Trương Bảo thu thập tàn quân cướp đường chạy thoát chết.
Quân giặc chạy chưa đầy ba mươi dặm thì lại gặp một tướng mắt nhỏ, râu dài, mình cao bảy thước, đang cầm đầu một đạo quân cắm toàn cờ đỏ, đổ ra chận đánh. Bị trận phục kích thứ hai này, quân giặc bạt vía kinh hồn, lớp thì chết, lớp ôm đầu chạy trốn không còn một manh giáp.
Vị tướng nhỏ vừa xuất hiện chính là quan Kỵ Ðô Úy, người Tiêu Quận, nước Bái, họ Tào tên Tháo, tự là Mạnh Ðức.
Trước kia, cha Tào Tháo vốn họ Hạ Hầu tên là Hạ Hầu Tung, nhưng sau làm con nuôi quan Trung Thường Thị Tào Ðằng nên Hạ Hầu Tung mới đổi ra là Tào Tung. Tào Tung sanh ra Tào Tháo có đặt cho Tháo tiểu tự là A Man, lại có thêm một tên nữa là Cát Lợi.
Lúc thiếu thời, Tào Tháo thích chơi bời, săn bắn, hát xướng, nhưng bản lãnh lại rất mưu mô xảo quyệt. Người chú của Tào Tháo thấy cháu mình du đãng, ham chơi bỏ học nên có nhiều lần phiền trách nói cho Tào Tung biết.
Mỗi lần như vậy, Tào Tung kêu con vào quở mắng, Tào Tháo đem lòng giận chú, mới nghĩ ra một kế.
Một hôm, thấy chú đến chơi, Tào Tháo giã vờ ngã lăn xuống đất, ngất lịm như trúng gió. Người chú thấy vậy thất kinh vội chạy đi tìm Tào Tung báo lại. Lúc Tào Tung chạy ra xem, thì thấy Tháo vẫn đứng chơi không có việc chi cả. Tào Tung ngạc nhiên hỏi:
- Kìa, sao chú con bảo là con trúng gió?
Tào Tháo thản nhiên thưa:
- Từ trước đến nay con có bệnh tật gì đâu? Có lẽ con đã làm điều gì mất lòng chú, nên chú giận rủa con như vậy.
Tào Tung nghe lời con, nên về sau Tào Tháo có lỗi gì người chú phiền trách, Tào Tung đều bỏ qua, không trách mắng Tháo nữa.
Tháo được thế càng chơi bời phóng đãng hơn. Thời ấy, có người tên là Kiêu Huyền bảo Tháo rằng:
- Thiên hạ loạn to đến nơi rồi, nếu không phải là người có tài tái thế, không ai xoay loạn ra an được. Người tài ấy có lẽ là ông đấy.
Lại có một người nữa ở Nam Dương, tên Hà Ngung, có dịp gặp Tào Tháo về nhà, tỏ ý nói:
- Nhà Hán sắp mất, Tào Tháo sẽ là người an định thiên hạ vậy.
Tào Tháo thấy có nhiều người nói đến mình, nhưng chưa vừa ý. Tháo lại nghe ở vùng miền Nam có Hứa Thiệu nổi danh là xem tướng biết người, liền tìm đến yết kiến và hỏi:
- Ông thấy tôi là người như thế nào?
Hứa Thiệu nhìn Tháo một lúc rồi lặng thinh không đáp. Tào Tháo gặn hỏi đôi ba lần, Hứa Thiệu mới nói:
- Ðời trị, ông là bầy tôi giỏi. Thời loạn, ông là kẻ gian hùng.
Nghe nói thế, Tào Tháo mừng vô cùng. Năm hai mươi tuổi, Tào Tháo đã đỗ Hiếu Liêm, làm quan Lang rồi được thăng Ðô úy Lộc Dương. Lúc vừa Ðến nhậm chức, Tháo đã sai treo mười cây roi ngũ sắc ở bốn cửa thành. Ai phạm đến luật cấm tức thì sai quân nọc cổ ra đánh liền, bất kể kẻ có thế lực, hay quyền quí.
Có một lần người chú ruột của quan Trung Thường Thị Kiển Thạc cầm dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt gặp, lập tức truyền lệnh bắt đem đến trước nha môn mà đánh, chẳng kiêng nể gì hết. Bởi vậy, trong ngoài đều sợ Tháo, không ai dám phạm luật nữa.
Uy danh của Tháo nhờ đó lừng lẫy, nên được thăng làm Quan Lệnh ở Ðốn Khâu. Nay giặc Khăn Vàng nổi lên, Tháo lại được thăng chức Trị Ðô Úy, dẫn năm ngàn quân mã kéo đến Dĩnh Xuyên trợ chiến.
Vừa đến nơi, gặp lúc Trương Lương, Trương Bảo bị trận hỏa công, thua chạy xiểng liểng, Tháo nhân cơ hội chặn đường giết giặc, chém hơn một vạớn đầu giặc, đoạt được người ngựa, khí giới vô số. Trương Lương và Trương Bảo gặp thế cùng, mở đường máu chạy thoát. Tháo liền kéo quân vào thành ra mắt Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn, rồi lại dẫn binh truy kích Trương Lương và Trương Bảo.
Bấy giờ, Huyền Ðức cùng Quan, Trương cũng vừa tới Dĩnh Xuyên, nghe xa xa có tiếng hò reo đánh giặc, lại thấy lửa cháy rực trời vội dẫn binh tới thì giặc đã tan rồi. Huyền Ðức vào yết kiến Hoàng Phủ Tung, Châu Tuấn, và nói rõ ý kiến của Lư Thực.
Hoàng Phủ Tung nói:
- Hai thằng giặc Trương Lương, Trương Bảo bị một trận hỏa công, thế cùng lực tận, chắc là chúng chạy sang Quảng Tôn hợp lực với Trương Giác. Các ngươi hãy tức tốc trở về đó mà giúp Lư tướng quân dẹp giặc.
Huyền Ðức lĩnh mệnh, lại dẫn quân trở về. Khi đến nửa đường, bỗng thấy một toán quân mã áp giải một chiếc tù xa, người ngồi bên trong lại là Lư Thực.
Thất kinh, Huyền Ðức vội tụt khỏi yên ngựa, chạy đến hỏi duyên cớ.
Lư Thực nói:
- Tôi vây Trương Giác sắp phá được binh giặc, thì bỗng triều đình có sai một viên Huỳnh Môn quan là Tả Phong ra mặt trận thám thính tình hình. Tả Phong đòi ăn hối lộ, tôi nói với hắn: "Ðến như quân lương hiện còn chưa đủ, lấy đâu ra tiền dư mà đãi sứ nhà vua?". Tả Phong tức giận về triều vu tấu rằng tôi không chịu tiến quân, cứ đắp lũy đào hào cố thủ, khiến lòng quân trễ nãi. Triều đình nổi giận, sai quan Trung Lang Tướng Ðổng Trác đến thay tôi cầm quân, và bắt tôi giải về kinh trị tội.
Trương Phi nghe dứt lời, máu giận sục sôi, toan rút gươm chém mấy tên quân hộ tống tù xa để cứu Lư Thực, nhưng Huyền Ðức đã kịp ngăn lại và nói:
- Việc của Lư tướng quân ngay gian sẽ có công luận xét đoán, chúng ta không nên bạo sát người của triều đình mà mang tội.
Trương Phi trợn mắt, nhìn chiếc tù xa cho đến khi mất hút. Vân Trường nói:
- Lư Trung Lang bị bắt, người khác cầm quân, chúng ta trông cậy vào ai mà trở lại Quảng Tôn? Chi bằng trở về Trác Quận là hơn.
Huyền Ðức nghe lời, cùng với hai em dẫn quân về phía Bắc. Ði chưa được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng quân reo tở mở, ba anh em Huyền Ðức liền trèo lên một đỉnh núi cao, xem thấy quân Hán bị thua cuốn cờ chạy trốn, còn đằng sau giặc Khăn Vàng đông đặc, đang đuổi theo rất hăng. Trên cây đại kỳ của giặc có đề bốn chữ: "Thiên Công Tướng Quân".
Huyền Ðức đưa tay chỉ bọn giặc, nói với Quan, Trương:
- Chính thằng này là Trương Giác, kẻ cầm đầu giặc Khăn Vàng gây rối. Chúng ta tham chiến ngay.
Ba anh em Huyền Ðức đồng phi ngựa dẫn quân lướt tới. Bấy giờ Trương Giác đã đánh bại Ðổng Trác, nên kéo binh truy kích rất ngặt. Ðang lúc hăng thế, bỗng gặp toán quân của ba anh em Huyền Ðức chặn lại, chúng rối loạn người ngựa đạp nhào lên nhau, mất cả hàng ngũ, bị quân Huyền Ðức chém giết một trận, làm cho chúng quay đầu bỏ chạy hơn năm mươi dặm.
Ba người cứu được Ðổng Trác về trại. Sau khi hỏi thăm, biết được ba anh em Huyền Ðức chưa có chức vụ gì, hiện còn là chân trắng, Ðổng Trác làm mặt khinh khỉnh, không thèm thi lễ và tiếp đãi.
Huyền Ðức bước ra ngoài, không nói gì, nhưng Trương Phi thì hầm hầm nét mặt, tỏ ý bất mãn:
- Hừ! Chúng ta lăn mình vào địch quân để cứu hắn, mà hắn lại dám vô lễ như thế! Phải giết hắn đi mới đã giận.
Mắng rồi, Trương Phi cầm xà mâu quay vào trướng định giết Ðổng Trác.
Ðó chính là:
Nhân tình thế thái đáng buồn than,
Ai biết anh hùng lúc trắng chân!
Nếu được muôn người như Dực Ðức,
Trên đời đã hết giống vong ân

Chú thích: 

(1) Thiên hạ tức là Ðế quốc Trung Hoa cổ gồm chín châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, và Ích. Dưới mỗi Châu có Quận và Huyện
(2) Vua Hán Cao Tổ đóng đô ở Tràng An (phía Tây) cho nên gọi là nhà Tây Hán. Nhà Tây Hán truyền đến đời vua Bình Ðế thì bị Vương Mãng giết và cướp ngôi. Lưu Tú giết được Vương Mãng, khôi phục lại cơ đồ nhà Hán, nhưng lại dời đô về Lộc Dương (phía Ðông) cho nên từ vua Quang Vũ về sau gọi là nhà Ðông Hán.
(3) Ðời vua Hán Vũ Ðế mỗi khi có cuộc tế Tông Miếu, các vị có tước Hầu trong họ Lưu đều phải vào dâng vàng làm lễ. Nếu vàng của ai có sắc xấu, không được sáng đẹp thì người đó bị mất tước Hầu.

Hết Hồi Thứ Nhất   -    Tam Quốc Chí    -   La Quán Trung



Hồi 02 - Tam Quốc Chí - La Quán Trung


 Hồi Thứ Hai   -  Tam Quốc Chí   -   La Quán Trung

Nổi Giận Trương Phi Ðánh Khâm Sai
Lập Mưu Hà Tiến Trừ Phản Loạn

Ðổng Trác có hiệu là Trọng Dĩnh, người xứ Lũ Tây, vùng Lâm Thao, làm quan Thái Thú quận Hà Ðông, vốn là một kẻ có tính kiêu ngạo.
Bởi thế, Trương Phi vừa thấy mặt đã ghét, muốn giết đi. Huyền Ðức và Vân Trường đồng can:
-Dù sao hắn cũng là người của triều đình sai đến, chúng ta không nên giết.
Trương Phi hầm hừ:
-Nếu không giết thằng ấy mà ở lại đây chịu mệnh lệnh của nó thì em không thể chịu được. Hai anh ở lại, em đi nơi khác
Huyền Ðức nói:
-Anh em ta đã thề đồng sanh tử thì việc đi ở có nhau. Nếu em muốn đi thì chúng ta cùng đi vậy.
Trương Phi mừng rỡ:
-Nếu thế thì em mới nguôi giận.
Ba anh em Huyền Ðức lại từ bỏ Trác Quận, ngày đêm kéo quân qua Dĩnh Xuyên theo Chu Tuấn. Chu Tuấn tiếp đãi anh em Huyền Ðức rất hậu, hợp binh làm một, tiến đánh Trương Bảo.
Bấy giờ, Tào Tháo và Hoàng Phủ Tung cũng đang hợp quân đánh nhau với Trương Lương ở Khúc Dương, riêng Trương Bảo thì lại địch với Chu Tuấn.
Trương Bảo đem tám, chín vạn quân đóng đồn sau chân núi khí thế rất vững. Chu Tuấn sai Huyền Ðức là tiên phong, kéo quân đến giao binh. Trương Bảo hay tin sai Phó Tướng Cao Thăng dẫn ba ngàn quân ra đối địch. Huyền Ðức khiến Trương Phi ra cự chiến. đánh chưa đầy ba hiệp, Trương Phi đã vung xà mâu đâm Cao Thăng đổ ruột nhào xuống ngựa chết ngay.
Trương Bảo thấy thế tức giận, lướt tới vung gươm niệm chú, đầu bỏ tóc xõa làm phép thuật, tức thì sấm chớp nổi lên, trên không bao phủ một vùng hắc khí. Trong vùng hắc khí ấy lại có vô số binh mã lần lượt rơi xuống.
Trông thấy pháp thuật, binh của Huyền Ðức rối loạn, nên Huyền Ðức vội vã thu quân.
Về đến dinh, Huyền Ðức vào ra mắt Chu Tuấn và bàn:
-Trương Bảo dùng tà thuật thắng chúng ta, ngày mai chúng ta phải dùng uế vật phá phép của nó mới được.
Chu Tuấn khen phải, khiến quân sĩ sắm ống thụt cho nhiều, và truyền lệnh giết dê chó đẻ lấy máu.
Kế đó, Huyền Ðức khiến Quan Công dẫn một ngàn quân mai phục nơi phía chân núi, đem theo ống thụt, máu dê, máu chó cho nhiều. Tất cả đều dự bị sẵn sàng.
Trời mờ sáng, Huyền Ðức dẫn một đạo binh ra trước trới địch khiêu chiến. Trương Bảo cười lớn nói:
-Hôm qua chúng đã bại binh, nay lại còn dám đến đây nạp mạng sao?
Liền truyền lệnh ba quân nai nịt chỉnh tề rồi xách giáp ra trước trại.
Trương Bảo vừa dẫn binh ra đã thấy Huyền Ðức múa kiếm mắng nhiếc. Trương Bảo nổi giận niệm chú, tức thì cát bay đá chạy âm khí mịt mù, trên không trung ngàn vạn binh mã ào ạt rơi xuống. Huyền Ðức quay ngựa bỏ chạy, Trương Bảo cười lớn giục ngựa đuổi theo.
Vừa qua khỏi núi, hai đạo binh phục của Quan, Trương nổi lên một tiếng pháo hiệu, ba quân hăm hở xông ra một lượt, dùng ống thụt nhúng vào máu thụt lên không, tức thì binh tướng yêu ma của Trương Bảo biến mất hết.
Trương Bảo thấy phép mình bị phá thất kinh, vừa muốn lui binh, thì hai đạo binh của Quan, Trương đã xông ra chận lại. Phía sau Huyền Ðức xua quân đuổi tới. Ba ngã đánh dồn lại làm cho đại binh của Trương Bảo tan vỡ, bị chết rất nhiều.
Trương Bảo mở huyết lộ, quất ngựa chạy dài, Huyền Ðức đuổi theo được vài dặm, lẹ tay rút ra một mũi tên ngắm Trương Bảo bắn theo.
Trương Bảo la lên một tiếng mũi tên cắm vào cánh tay phía tả, không còn cầm thương được nữa, phải ôm cổ ngựa chạy thẳng vào Dương Thành đóng của cố thủ.
Chu Tuấn thừa thắng, một mặt đốc quân vây chặt bốn cửa thành, một mặt cho người đi dò la tin tức của Hoàng Phủ Tung.
Nhắc lại từ khi Ðổng Trác thay thế Lư Thực để đấu chiến với Trương Giác, Ðổng Trác đã thua hơn bảy trận. Tin ấy đến tai triều đình. Vua liền triệu Ðổng Trác về trách mắng, và sai Hoàng phủ Tung ra thay thế.
Hoàng Phủ Tung đến nơi thì Trương Giác đã chết vì bệnh. Trương Lương thống lĩnh binh mã thay thế. Trương Lương cự với Hoàng Phủ Tung. Nhưng chẳng bao lâu, lực lượng của Trương Lương mòn mỏi, bị Hoàng Phủ Tung lập kế chém chết Trương Lương tại Khúc Dương, rồi đào mả Trương Giác lên, chặt đầu đem về triều dâng nạp. Triều đình phong cho Hoàng Phủ Tung là Xa Kỵ Tướng quân, trấn nhậm tới Ký Châu.
Hoàng Phủ Tung lại làm sớ dâng về triều xin cho Lư Thực khỏi tội, và phục hồi nguyên chức. Tào Tháo cũng có công dẹp giặc Trương Giác nên được phong làm Tể Tướng Nam.
Chu Tuấn hay được tin ấy, lòng nao nao, vội thối thúc binh sĩ ngày đêm phá thành Trương Bảo rất gấp. Trong thành quân sĩ đều hết lương thực, thế giặc nguy cấp, nên tướng giặc là Nghiêm Chách đâm chết Trương Bảo, rồi chặt đầu đem ra ngoài thành dâng cho Chu Tuấn.
Thế là Chu Tuấn đã dẹp yên được mấy Quận, vội viết thiệp gởi về dâng tấu.
Bấy giờ còn dư đảng của giặc Khăn Vàng lẫn trốn trong núi non, rừng rậm, thỉnh thoảng kéo ra quấy nhiễu dân lành. Triều đình lại sai Chu Tuấn đem đoàn quân chiến thắng đi dẹp giặc các nơi hiểm yếu. Chu Tuấn tuân lệnh kéo quân ra đi.
Nhưng đi được vài ngày thì bỗng thấy trước mặt có một đạo binh kéo tới. Ngỡ là quân giặc, Chu Tuấn toan cho lệnh đánh, nhưng xem lại tướng đi đầu không phải là giặc, mà là một trang thanh niên trán rộng, mắt sáng, lưng gấu, vai hùm, oai phong lẫm liệt.
Người này họ Tôn tên Kiên, quê ở Ngô quận, đất Phú Xuân tự là Vân Ðài, dòng dõi Tôn Vũ Tử, một nhà quân sự lừng danh.
Năm Tôn Kiên lên mười bảy tuổi, theo cha tới sông Tiền Ðường, thấy hơn mười tên hải tặc vừa cướp thuyền của một khách buôn, đang chia tiền nhau trên bờ. Tôn Kiên nói với cha:
- Con xin phép bắt lũ giặc này.
Rồi nhảy lên bờ múa đao hò hét, tay chỉ trỏ Ðông Tây nhưng gọi quân bốn mặt đến. Giặc tưởng là quan quân đi tuần, vội bỏ hết của cải chạy trốn. Tôn Kiên đuổi theo chém được một đứa. Do đó, các quận huyện đều biết danh, được tiến cử làm Hiệu Úy.
Sau đó, lại có tên yêu tặc làm phản ở Cói Kê, xưng là Dương Minh Hoàng Ðế, tụ tập thảo khấu có hơn vài vạn. Tôn Kiên cùng quan quân Châu Quận phá được giặc chém đầu Hứa Xương, và đứa con của hắn là Hứa Thiều.
Quan Thứ Sử Tang Mân thấy Tôn Kiên lập được công lớn, liền dâng biểu về triều bảo tấu. Triều đình phong cho Tôn Kiên làm quan Thừa ở Diêm Tộc, sau đổi sang Hu Di Thừa, rồi lại làm Hạ Bì Thừa.
Nay thấy giặc Khăn Vàng nổi lên quấy nhiễu, Tôn Kiên lại một lần nữa tụ tập thiếu niên trong thôn ấp, và thu nạp một số võ sĩ ở miền sông Hoài, lập thành một đạo quân hơn một ngàn năm trăm người, kéo đi tiếp ứng cho quân triều.
Chu Tuấn mừng rỡ liền thu dụng Tôn Kiên, cùng nhau hiệp binh để truy nã giặc cướp.
Chẳng bao lâu, các nơi hẻo lánh đã dẹp xong, duy có ba tên giặc lớn, dư đảng của Truơng Giác, là Triệu Hoằng, Hàn Trung, Tôn Trọng, tụ tập hơn vài vạn quân, chiếm cứ nơi Uyển Thành, bên trong cướp của giết người, bên ngoài thinh thế là để trả thù cho ba anh em Trương Giác.
Chu Tuấn liền léo quân đến nơi vây đánh, sai ba anh em Huyền Ðức ngày đêm công thành.
Trong thành hết lương, Hàn Trung liệu thế không chống nổi, sai người ra xin hàng. Chu Tuấn không cho. 
Huyền Ðức nói:
- Xưa, Hán Cao Tổ sở dĩ được thiên hạ nhờ ở chỗ chiêu dụ kẻ hàng, thu nạp kẻ thuận. Sao nay ông lại không cho Hàn Trung hàng?
Chu Tuấn đáp:
- Thời ấy khác, thời nay khác. Xưa nhà Tần bạo ngược, Hạng Vũ hung tàn, thiên hạ đại loạn, người dân không biết ai là thánh chúa, nên Hán Cao Tổ phải tỏ lượng khoan dung để thu phục thiên hạ. Nay bốn bể, dân gian ai cũng biết nhà Hán là chủ thiên hạ, chỉ có giặc Khăn Vàng làm phản. Nếu để chúng đắc thế thì làm loạn, yếu thế thì đầu hàng, là sao giữ được luật pháp? Tha cho chúng đầu hàng tức là khuyến khích sự phản nghịch đó.
Huyền Ðức đáp:
- Không cho giặc hàng cũng phải. Nhưng hiện nay ta vây kín bốn mặt thành, giặc bí thế tất phải liều tử chiến. Muôn người một lòng thì khó chống. Hơn nữa trong thành có hơn ba vạn sanh linh, chẳng lẽ vì chiến sự mà phải chết cả sao? Chi bằng chúng ta triệt quân ở hai mặt Ðông, Nam chỉ đánh hai mặt Tây, Bắc, để cho giặc bỏ thành chạy, rồi ta bắt sống là hơn.
Chu Tuấn nghe lời, triệt hết quân hai mặt Ðông, Nam, dồn về đánh hai mặt Tây, Bắc. Quả nhiên, Hà Trung dẫn quân bỏ chạy. Chu Tuấn liền cùng với anh em Huyền Ðức thúc quân đuổi theo chém giết, và bắt Hàn Trung. Quân giặc sống sót chạy tán loạn.
Ðang lúc quân Hàn truy kích, bỗng có Triệu Hoằng, Tôn Trọng dẫn quân đến vây đánh Chu Tuấn, Chu Tuấn thấy quân giặc đông nên phải tạm lui. Do đó, Triệu Hoằng thừa thế chiếm lại được Uyển Thành.
Chu Tuấn lui mười dặm hạ trại, rồi ngày hôm sau lại đều binh khiển tướng vây thành.
Chu Tuấn sai Tôn Kiên đánh phía Nam Uyển Thành, Huyền Ðức đánh cửa Bắc, Chu Tuấn đánh cửa Tây, chừa cửa Ðông nhử cho giặc chạy.
Tôn Kiên tự mình nhảy lên mặt thành trước tiên, vung đao chém luôn một lúc hai mươi tên giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy xuống hết. Triệu Hoằng thấy thế liền cầm giáo dài phi ngựa tới đâm. Tôn Kiên từ mặt thành phi thân xuống, cướp luôn cây giáo của Triệu Hoằng, rồi xông vào giết giặc.
Bị binh Tôn Kiên hãm thành quá mạnh, Tôn Trọng kéo tàn quân chạy vụt ra cửa Bắc, bỗng gặp Huyền Ðức kéo quân chận lại. Tôn Trọng không còn lòng dạ nào giao đấu nữa, vội lách mình qua đám loạn quân chạy trốn. Huyền Ðức giương cung bắn theo một phát trúng Tôn Trọng nhào xuống ngựa chết tức thì.
Bấy giờ, đại quân của Chu Tuấn thừa thế đánh ập vào chiếm thành, chém hơn một vạn thủ cấp của giặc. Quân giặc lớp chết lớp đầu hàng. Thế là một giải Nam Dương hơn mười quận được bình định.
Chu Tuấn truyền lệnh ban sư hồi trào, vào thẳng Ngân Loan Ðiện ra mắt. 
Hán Vương truyền dọn tiệc khao thưởng quân sĩ và phong cho Chu Tuấn làm chức Xa Kỵ Tướng Quân, kiêm lãnh Hà Nam.
Chu Tuấn dâng biểu xin phong chức cho Tôn Kiên và ba anh em Huyền Ðức. Tôn Kiên vì có thân thế nên được phong chức Tư Mã, lãnh quân đi trấn nhậm liền. Còn ba anh em Huyền Ðức chờ đợi rất lâu, mà không thấy phong thưởng gì hết, lòng lấy làm hổ thẹn, chẳng biết vì sao triều đình lại có chuyện bất công như vậy.
Một hôm, ba anh em Huyền Ðức ra đường dạo mát giải khuây, bỗng gặp xe của Quan Lang là Trương Quân đi ngang qua đó. Huyền Ðức tỏ hết tâm sự mình cho Trương Quân nghe.
Trương Quân nghe nói cả kinh, lập tức vào triều tâu:
- Xưa những cuộc nổi loạn gây nên thường bởi những kẻ nịnh thần. Sở dĩ giặc Khăn Vàng tạo phản là vì lũ Thập Thường Thị khi quân, mua quan bán tước, kẻ có công không được thưởng, kẻ có tội không bị trừng phạt xứng đáng, làm mất lẽ công bằng. Vậy nay bệ hạ phải chém đầu hết chúng nó và ban bố cho dân chúng biết, thì lòng dân mới yên ổn.
Bọn Thập Thường Thị liền tâu với vua là Trương Quân khi chúa. Vua khiến kẻ tả hữu đuổi Trương Quân ra.
Ðược vua tín dùng, bọn Thập Thường Thị lại càng đắc ý bàn với nhau:
- Ðây chắc có kẻ nào có công dẹp giặc Khăn Vàng mà không được trọng thượng nên oán hận sanh ra chuyện ấy. Bây giờ chúng ta phải tìm chức nào nho nhỏ phong cho nó, để chúng nó an lòng, rồi sẽ tìm cách sa thải chúng cũng không muộn.
Bởi lẽ đó nên Huyền Ðức được phong làm Huyện Úy tới huyện An Hỉ, thuộc phủ Trnng San, và phải phó nhiệm liền nội ngày hôm ấy.
Huyền Ðức được lịnh cho tất cả các nghĩa binh của mình được trở về làng, chỉ còn để lại vài mươi người tâm phúc, rồi cùng Quan, Trương thẳng đến huyện An Hỉ nhận việc.
Trấn nhậm được bốn tháng, nhân dân nơi đây rất mến phục ba anh em Huyền Ðức là người có nhiều lương tâm và đạo đức.
  Ngày kia, Huyền Ðức bắt được chiếu chỉ của Triều đình phán rằng: "Tất cả những kẻ có công dẹp giặc Khăn Vàng được phong làm chức Huyện Úy đều phải bị cách chức."
Huyền Ðức đoán biết mình thế nào cũng bị sa thải, nên đêm ngày thường bàn bạc với hai em chưa biết vì duyên cớ gì.
Bỗng có Ðốc Bưu di hành đến huyện. Huyền Ðức ra thành nghinh tiếp, vừa thấy Ðốc Bưu vào đến quán dịch, Ðốc Bưu gọi Huyền Ðức nói:
- Huyện Úy làm người thế nào mà xuất thân đó?
Huyền Ðức nói:
- Tôi vốn là dòng dõi của Trung Sơn Tĩnh Vương vì lúc nọ nghe giặc Khăn Vàng tạo phản nên ra tụ tập nghĩa quân giúp nước. Từ ở Trác quận tôi đã dẹp lớn nhỏ hơn ba mươi trận, vì vậy mà được chút ít công lao nên được phong làm chức Huyện Úy nầy.
Huyền Ðức nói chưa dứt lời thì Ðốc Bưu đã hét lớn:
- Sao ngươi dám xưng là Hoàng Thân, lại còn hư báo công lao của ngươi nữa? Nay ta vâng lệnh triều đình đến đây để sa thải các tham quan, ô lại, ngươi có biết không?
Huyền Ðức nghe Ðốc Bưu nói thế, vội vàng lui ra không dám cãi, trở về huyện bàn vớì các quan lại. Các quan lại bàn tính một hồi rồi mới nói với Huyền Ðức.
- Ðốc Bưu là một đứa bất liêm. Nay nó làm oai như vậy là ý nó muốn nài hối lộ đó.
Huyền Ðức lắc đầu, nghĩ ngợi giây lát rồi nói:
- Ta lâu nay chẳng hề lấy của ai một đồng, một chữ nào, vậy tiền đâu mà đưa cho nó. Vả chăng, nếu có tiền ta cũng không thể làm được cái chuyện hèn hạ như vậy.
Ðốc Bưu thấy Huyền Ðức tỏ vẻ không phục tùng ý muốn của mình, bèn bắt tất cả các quan lại buộc vu cho Huyện Úy là người hà lạm của dân. Các quan đều khóc lóc xin cho Huyền Ðức.
Lúc ấy, Trương Phi cũng vừa đi đến, thấy có năm sáu ông già ngồi buồn trước quán dịnh khóc lóc. Phi liền kêu lại hỏi thăm duyên cớ, thì các ông già kia nói:
- Ðốc Bưu bắt ép bọn tôi khai cho Lưu Công là kẻ hà lạm, chúng tôi vì cảm mến Lưu công nên đã xin ba bốn phen mà chưa được.
Nhân lúc Trương Phi vừa uống xong mấy chén rượu để giải buồn, nghe nói như vậy, lòng nổi nóng, liền nhảy vội xuống ngựa xông vào quán dịch, chạy thẳng đến công đường, thấy Ðốc Bưu đang ngồi vểnh chân trên cao thét mắng các Huyện lại bị trói để nằm dưới đất.
Trương Phi bước đến thét lớn:
- Thằng khốn nạn kia! Ngươi biết ta là ai mà ngươi dám đến đây làm phách như vậy?
Ðốc Bưu chưa kịp nói nửa lời thì liền bị Trương Phi nhảy tới đá một đá vào quai hàm. Ðốc Bưu đau quá, la lên một tiếng, nhào xuống đất.
Chưa chịu thôi, Trương Phi nắm râu Ðốc Bưu kéo đi xềnh xệch, dẫn thẳng đến huyện nha, trói vào cột cờ, rồi bẻ roi đánh Ðốc Bưu một hồi nữa, đến gãy hết mấy chục cành roi liễu. Ðốc Bưu chẳng biết làm sao, đau quá buộc lòng phải năn nỉ, nhưng Trương Phi không tha.
Lúc ấy Huyền Ðức đang ngồi một mình buồn bực, bỗng nghe có tiếng huyên náo liền hỏi kẻ tả hữu. Và bọn này thưa:
- Trương tướng quân đang trói một người trước huyện nha mà đánh dữ lắm!
Huyền Ðức vội vã bước ra xem thì thấy người bị đánh là Ðốc Bưu, ông ta thất kinh, chạy lại nắm tay Trương Phi kéo lại. Trương Phi nói với Huyền Ðức:
- Anh đừng cản ngăn. Thằng này là một đứa ăn cướp, không đánh cho chết để làm gì?
Thấy Huyền Ðức tới, Ðốc Bưu năn nỉ:
- Lưu công ơi! Xin cứu dùm tánh mớng tôi với.
Huyền Ðức vốn lòng nhân từ thấy vậy không cho Trương Phi đánh nữa. Quan Công đang đứng một bên, bước đến nói:
- Ðại ca đã lập được công lao rất lớn. Với công án ấy lẽ ra đại ca phải được trọng thưởng, thế mà đại ca chỉ được chức Huyện Úy nhỏ mọn nầy. đã vậy, Ðốc Bưu lại còn đến đây đòi của hối lộ, làm nhục chúng ta nữa. Em nghĩ, không phải là chỗ để cho chim phụng hoàng nghỉ cánh, chỉ bằng giết quách Ðốc Bưu cho đã giận rồi trả ấn, trở về làng tìm cơ lập nghiệp là hơn.
Huyền Ðức liền lấy ấn treo nơi cổ Ðốc Bưu, và nói:
- Cứ như cái tội nhũng lạm của dân cũng đủ cho chúng ta giết ngươi cho an lòng dân chúng, nhưng vì từ tâm, ta dung thứ cho ngươi đó. Ngươi hãy đem ấn này về giao nạp cho triều đình, và ăn năn hối cãi để khỏi ân hận sau nầy. Chúng ta đi đây.
Khi Ðốc Bưu được thả thì ba anh em Huyền Ðức đi hết. Ðốc Bưu quá tức giận, lén đi cáo với quan Thái Thú quận Dĩnh Châu, vu cáo cho anh em Huyền Ðức mưu phản. Quan Thái thú Dĩnh Châu ra lệnh khắp các huyện tầm nã ba anh em Huyền Ðức.
Bấy giờ, ba anh em Huyền Ðức dắt nhau qua Ðới Châu ở với Lưu Khôi. Lưu Khôi thấy Huyền Ðức là dòng dõi nhà Hán nên có cảm tình giấu nuôi trong nhà.
Tới triều, bọn Thập Thường Thị lúc nầy lại lộng quuyền thái quá. Chúng dùng đủ cách tham ô. Những người nào phục tùng theo chúng thì được chức quyền, bằng trái lại thì đều bị chúng làm hại. Chúng lại sai người đi khắp quận huyện bắt những người nào có công dẹp giặc Khăn Vàng, được phong chức tước đều phải nạp lễ vật cho chúng, nếu không chúng tâu với vua sa thải ngay.
Bởi lẽ đó, nên nhiều người liêm chính đã bỏ chức về làng làm dân, không chịu mang tiếng nhục. Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn là người có công lớn trong việc dẹp giặc Khăn Vàng, cũng bị bọn Thập Thường thị tâu với vua bãi chức.
Vua lại phong cho nhóm nịnh thần như Triệu Trung làm chức Xa Kỵ Tướng quân, và hết thảy mười ba người trong bọn Trương Nhượng đều lãnh chức Liệt Hầu. Từ đó, việc triều chính càng ngày càng hư nát, triều thần lộn xộn, dân tình ly tán.
Tới quận Trường Xa có tên Khu Tỉnh nổi loạn. - Ngư Dương có bè lũ Trương Cử, Trương Thuần làm phản. Trương Cử xưng Thiên tử, Trương Thuần xưng Ðại Tướng Quân. Biểu văn hàng ngày cấp báo về triều như cánh bướm, nhưng bọn Thập Thường Thị nhẹm hết, không cho vua hay.
Một hôm vua ngự ở hậu viên, đang yến ẩm với bọn Thập Thường Thị bỗng có quan Giám Nghị Ðại Phu Lưu Ðào đi thẳng vào, quỳ trước mặt vua mà khóc. Vua hỏi duyên cớ, Lưu Ðào tâu:
- Vận mạng thiên hạ có thể nguy biến trong một sớm một chiều, thế mà bệ hạ cứ ngồi yến ẩm với bọn yểm hoạn này ư?
Vua nói:
- Nước nhà đang lúc thái bình thanh trị, sao khanh lại nói là nguy biến?
Lưu ựào tâu:
- Bốn phương giặc giã nổi lên như ong, hiện đang xâm chiếm từ Châu nọ đến Quận kia! Cái tai vạ này cũng chỉ vì mười tên Thường Thị buôn quan bán chức, hại dân mà ra! Chúng dối vua loạn phép, cho nên những người ngay thẳng đều xa lánh triều đình. Cái nguy biến trước mắt, mong bệ hạ suy xét.
Mười tên Thường Thị nghe vậy liền quỳ xuống trước mặt vua, trật mũ ra, tâu:
- Quan đại thần đã không dung thì lũ hạ thần này phải chết. Xin bệ hạ mở lòng hiếu sinh cho chúng tôi được trở về làng cày ruộng, làm vườn, nguyện đem hết tài trí giúp nước nhà nuôi quân phá giặc.
Tâu xong, tât cả mười tên Thường thị đều khóc rống lên rất thảm thiết, như sắp bị đem đi hành hình vậy.
Vua giận mắng Lưu Ðào:
- Nhà ngươi cũng có đầy tớ, sao lại không dung kẻ hầu, người hạ của trẫm.
Nói xong vua lại truyền võ sĩ bắt Lưu Ðào đem chém.
Lưu Ðào kêu lớn:
- Ðầu thần rơi không đáng tiết, chỉ tiếc cho cơ nghiệp nhà Hán gây dựng trên bốn trăm năm, nay phút chốc phải tan tành.
Võ sĩ trói Lưu Ðào đem ra ngoài, sắp sửa hành hình, thì bỗng có một vị đại thần chạy đến quát lớn:
- Không được hạ thủ. để ta vào can vua đã!
Võ sĩ thấy đó là quan Tư Ðồ Trần Ðam, nên chưa dám khai đao, còn chờ lệnh.
Trần Ðam đi thẳng vào hỏi vua:
- Lưu Giám nghị có tội gì mà bệ hạ truyền đem chém?
Vua Linh Ðế nói:
- Tội sàm báng cận thần và khi quân.
Trần Ðam nói:
- Hầu hết dân chúng trong thiên hạ ai cũng muốn ăn sống mười đứa Thường Thị, sao bệ hạ lại kính nể chúng như cha mẹ? Không một tấc công lao mà sao đứa nào cũng được phong tước Hầu. Ðã vậy, bọn Phong Tư là kẻ tư thông với giặc Khăn Vàng, toan làm nội phản, thế mà nay bệ hạ còn chưa tỉnh ngộ, mến chuộng bọn hoạn quan như thế sao?
Linh Ðế nói:
- Phong Tư làm phản, việc ấy còn mù mờ chưa rõ hư thật. Còn như trong mười người Thường Thị há lại không có kẻ nào là trung thần sao?
Trần Ðam dập đầu dưới đất, nhất định can vua cho kỳ được. Vua nổi giận truyền võ sĩ trói lại đem ra hạ ngục cùng với Lưu Ðào, chờ xét xử sau.
Ngay đêm đó, bọn Thường Thị kéo nhau vào ngục giết chết hai vị trung thần này, rồi chúng lại giả chiếu vua phong Tôn Kiên làm Thái Thú Trường Sa, sai đi đánh Khu Tỉnh, bình định phiến loạn.
Chưa đầy ba mươi ngày, Tôn Kiên đã dẹp yên, viết thiệp về triều cáo báo. Thế là vùng Giang Hạ được yên, Tôn Kiên được phong làm Ý Trình Hầu, Lưu Ngu thì được phong làm U Châu Mục, lãnh quân đến Ngư Dương đánh Trương Thuần, Trương Cử.
Bấy giờ Lưu Khôi ở Ðới Châu viết thơ tiến cử và bảo ba anh em Huyền Ðức đến ra mắt Lưu Ngu. Lưu Ngu rất mừng, cử anh em Huyền Ðức làm Ðô Úy, dẫn binh vào thẳng sào huyệt của giặc đánh phá kịch liệt hai ba ngày liền.
Trương Thuần vốn là kẻ hung bạo hay chém giết, nên lòng quân sinh biến. Một tên đầu mục núp trong trướng lừa giết chết Trương Thuần rồi đem đầu ra ngoài nạp cho Huyền Ðức. Trương Cử thấy tình thế nguy nan, nên tự tử chết luôn. Quân sĩ kéo ra đầu hàng hết.
Ngư Dương bình đinh, Lưu Ngu dâng biểu tâu rõ công lớn của Lưu Bị. Triều đình xá cho Huyền Ðức cái tội đánh Ðốc Bưu và phong chức Hạ Mật Thừa, rồi thăng Cao Ðường Úy.
Sau đó, Công Tôn Toản lại dâng biểu trần thuật công lao của Huyền Ðức khi dẹp giặc Khăn Vàng trước kia mà tiến cử làm Liệt Bộ Tư Mã, lãnh chức Bình Nguyên Huyện Lệnh. Triều đình y tấu, Huyền Ðức tới chấn nhậm Bình Nguyên, có đủ lương tiền, quân mã, ba anh em mới được thanh nhàn. Còn Lưu Ngu có công dẹp giặc được phong làm Thái Úy.
Năm Trung Bình thứ sáu, mùa hạ, tháng tư, vua Linh Ðế đau nặng, bèn triều Ðại Tướng Hà Tiến vào cung để thương nghị.
Hà Tiến vốn con nhà hàng heo, nhân cơ hội em gái vào cung làm quý nhân, nhờ sanh được hoàng tử Biện, nên mới được phong làm Hoàng Hậu. Hà Tiến cũng nhờ đó mà nhậm được trọng chức.
Vua lại lấy Vương Mỹ Nhân sanh đặng Hoàng tử Hiệp, vì thế Hà thái hậu ghen ghét dùng thuốc độc giết Vương Mỹ Nhân đi.
Ðổng Thái Hậu liền đem Hoàng tử Hiệp về cung riêng của mình để nuôi dưỡng.
Ðổng Thái Hậu là mẹ của vua Linh Ðế, thường ngày khuyên vua lập Hoàng tử Hiệp làm thái tử. Vua cũng bằng lòng, ngặt vì đau nặng nên chưa tính đến việc ấy được. Trung Thường Nghị là Kiển Thạc biết việc ấy bèn vào tâu với vua:
- Nếu bệ hạ muốn lập Hoàng tử Hiệp lên ngôi thì bệ hạ phải giết Hà Tiến thì sau này mới khỏi sanh hậu hoạn.
Vua suy nghĩ rồi cho đòi Hà Tiến vào cung. Khi Hà Tiến vừa vào tới cửa cung thì gặp quan Tư Mã là Phan Ân đón lại nói:
- Ông chớ vào cung, Kiển Thạc âm mưu muốn giết ông đấy.
Hà Tiến nghe nói thất kinh vội vã bước ra về thẳng tư dinh, lập tức mời các quan đại thần đến bàn bạc công việc. 
Ông nói:
- Nay bọn hoạn quan ỷ thế, làm nhiều đều sàm nịnh, nếu chúng ta không tìm cách trừ hết bọn nó, thì chúng ta ắt không khỏi mang hậu họa.
Hà Tiến vừa nói dứt lời, thì bỗng có một người bước đến, thưa:
- Quyền thế của hoạn quan rất mạnh, khởi từ lúc vua còn nhỏ, chi nhánh trong triều rất nhiều, giết làm sao hết được, phỏng như chúng ta không làm nổi để lộ cơ mưu ắt không khỏi bị diệt tộc.
Hà Tiến quay mặt sang nhìn, thì thấy người ấy là Tào Tháo, ông nổi giận nạt lớn:
- Ngươi là người tiểu bối, biết gì mà dám bàn đến.
Trong lúc mọi người còn đang bàn bạc thì Phan An chạy đến nói:
- Vua đã băng hà rồi, nhưng Kiển Thạc lại thương nghị với bọn Thập Thường Thị không cho phát lộ ra ngoài. Chúng nó muốn triệu Hà Quốc Cựu vào cung để diệt trừ hậu họa, hầu lập Hoàng tử Hiệp lên làm vua.
Phan An nói vừa dứt lời thì quả có chiếu triệu đòi Hà Tiến vào cung.
Tào Tháo thấy vậy bước ra nói:
- Hôm nay hãy lo tôn tân quân trước đã, rồi sẽ tính kế trừ lũ nịnh thần sau.
Hà Tiến nói:
- Như vậy ai vì ta, vì xã tắc mà lo việc chánh quân và việc trừ lũ nịnh hay không?
Bỗng có người từ góc trái bước ra, thưa:
- Xin cho tôi lãnh năm ngàn quân đến tới cung phá cửa lập tân quân và bắt tất cả bọn Thập Thường Thị mà giết cho rồi.
Hà Tiến xem lại người nói đó là Tư Ðồ Viên Thiệu, tự là Bôn Sồ, hiện đang giữ chức Tư Ðồ Huyện Úy. 
Hà Tiến mừng rỡ, vội vã điểm năm ngàn quân giao cho Viên Thiệu.
Viên Thiệu nai nịt hẳn hòi dẫn năm ngàn quân Ngự Lâm kéo thẳng vào cung. Còn Hà Tiến thì cùng với các quan đại thần như: Hà Ngung, Tuân Nhu, Trịnh Thái v.v.. cộng cả thảy hơn ba mươi người, đồng kéo thẳng vào trào, lập Thái tử Biện lên ngôi Hoàng đế.
Viên Thiệu dẫn quân đi thẳng vào cung tìm bắt Kiển Thạc, và nã tróc bọn Thập Thường Thị.
Kiển Thạc hay tin khiếp vía, vội vã nhảy ra ngự huê viên mà trốn, nhưng bất thời lại gặp Trung Thường Thị là Quách Thắng thấy được đâm một kiếm chết tốt.
Bọn Trương Nhượng biết nguy đã đến nơi liền chạy vào cung van cầu Hà Thái Hậu:
- Kẻ lập mưu hãm lại tướng công là Kiển Thạc, nay Kiển Thạc đã chết rồi, còn chúng tôi là kẻ vô can, mong Thái hậu mở lòng nhân che chở cho.
Hà Thái hậu nói:
- Các người đừng sợ nữa, để ta bảo hộ cho.
Dứt lời, Hà Thái hậu liền triều Hà Tiến đến nói:
- Anh em ta lúc trước hàn vi, nếu không nhờ bọn Trương Nhượng giúp đỡ một tay thì đâu có quyền cao lộc cả như ngày hôm nay. Vậy anh nên nghĩ lại vị tình mà dung tha bọn Trương Nhượng là phải hơn.
Hà Tiến ngẫm nghĩ giây lâu rồi trở ra nói với các quan:
- Kiển Thạc là một tên bạo phản, nay hắn đã đền tội rồi, còn các người khác ta có thể dung tha được, chớ nên sát hại chúng làm chi.
Viên Thiệu nói:
- Ðốn cây mà không nhổ tận rễ thì làm sao khỏi bị nứt chồi.
Hà Tiên nói:
- Ý ta đã cương quyết như vậy, ngươi chớ có nhiều lời vô ích.
Các quan nghe Hà Tiến nói thế, ai nấy đều hậm hực lui về dinh.
Sáng hôm sau Hà Thái hậu giáng chỉ phong Hà Tiến làm Tham Lục Thượng Thơ, còn các quần thần cứ đẳng gia phong một trật.
Công việc làm của Hà Tiến khiến cho Ðổng Thái Hậu căm tức, bèn kêu bọn Trương Nhượng vào cung nói:
- Em gái hắn trước kia chính nhờ ta tiến cử nó mới được vua yêu dùng đến ngày hôm nay. Hôm nay con trai của nó được nối ngôi Hoàng đế, thế lực trong ngoài của nó quá mạnh, như vậy bọn chúng ta có ngày e phải lâm hại.
Trương Nhượng nghe Ðổng Thái Hậu than thở, liền bày mưu:
- Bây giờ Nương Nương làm sao chưởng chấp uy quyền, Cựu Ðổng Trọng và phong thêm chức cho chúng tôi thì một ngày kia chúng tôi có cơ hội cứu nguy tình thế.
Ðổng Thái Hậu rất mừng khen Trương Nhượng có mưu cao.
Ngày thứ Ðổng Thái Hậu thiết trào rồi giáng chỉ phong cho Hoàng tử Hiệp làm Trần Lưu vương, Ðổng Trọng làm Biên Kỵ tướng quân, bọn Trương Nhượng đều được gia thêm chức và cùng dự việc trào chính.
Hà Thái Hậu thấy Ðổng Thái Hậu lộng quyền trong lòng sanh nghi, bèn thiết yến diện trong cung rồi thỉnh Ðổng Thái Hậu phó yến.
Khi dự tiệc nửa chừng, Hà Thái Hậu đứng dậy tay bưng chén rượu nói với Ðổng Thái Hậu:
- Chúng ta là phận đàn bà mà dự đến việc trào chính chẳng khác nào chúng ta đã đi ngoài phận sự. Những gương xưa còn rành, Lữ Hậu cũng vì nắm trọn quyền mà cả dòng họ bị tru lục, và còn biết bao nhiêu việc tai hại khác. Chúng ta hãy noi gương đó mà tránh đi những cái dữ để khỏi ân hận ngày sau
Ðổng Thái Hậu giận dữ mắng lớn:
- Mi ỷ thế lực của con mi làm vua mi dám loạn ngôn như vậy. Tội ngươi tra thuốc giết Vương mỹ nhân là một cựu thù ta chưa nói đến đó thôi.
Hà Thái Hậu thấy Ðổng Thái Hậu nói quá lời, lòng nổi giận cũng mắng lại:
- Ta lấy lời hơn lẽ thiệt để bàn bạc, sao mi lại dám xúc phạm đến danh dự của ta?
Hai bên không ai chịu nhịn ai, cứ mắng đùa với nhau không kể gì đến danh dự. Bọn Trương Nhượng hay tin, vội chạy đến can ngăn hết lời Ðổng Thái Hậu mới chịu về cung.
Hà Thái Hậu đêm ấy không ngủ được, bèn gọi Hà Tiến đến tỏ bày việc ấy.
Rớng sáng Hà Tiến một mặt nhóm họp đình thần buộc Ðổng Thái Hậu phải rời khỏi cung ra ở phủ Hà Giang, mặt khác vây nhà Biên Kỵ tướng quân Ðổng Trọng. Ðổng Trọng liệu thế khó thoát được liền cầm đao tự vận nơi hậu dinh.
Bọn Trương Nhượng thất vía không biết chổ nào nương tựa vì thế lực của Ðổng Thái Hậu đã tiêu tan trong phút chốc, bèn đem tiền bạc vàng lụa đến lo lót cho người em Hà Tiến là Hà Miêu nói với Hà Thái Hậu để được toàn mạng. Nhờ đó mà bọn Thập Thường Thị lại vẫn được dung dưỡng và giữ chức quyền như cũ.
Việc triều chính đã tạm yên, Hà Tiến còn sợ những hậu họa nên sai người đến Hà Giang tìm cách đánh thuốc độc Ðổng Thái Hậu. Cách mấy ngày sau có tin Ðổng Thái Hậu bị ngộ độc mà chết, Hà Tiến bèn dạy đem xác Ðổng Thái Hậu về chôn nơi Vương Lăng.
Công việc ấy thấu tai đến lũ nịnh thần nên nhiều tiếng đồn làm cho Viên Thiệu hay được. Viên Thiệu liền vào nói lại với Hà Tiến:
- Tôi có nghe tiếng đồn do bọn Thập Thường Thị rao ra rằng tướng công đã giết Ðổng Thái Hậu. Nếu để chúng gièm pha như vậy e không lợi, chi bằng nhân cơ hội nầy mà giết chết bọn chúng đi thì mới khởi sợ sanh ra hậu hoạn.
Hà Tiến nghe được việc ấy, ngày đêm còn đang suy đi tính lại để tìm cách diệt trừ bọn Thập Thường Thị, thì việc này bọn Trương Nhượng hay được. Nhưng thế yếu không biết làm sao, bọn Trương Nhượng lại đem vàng bạc thiệt nhiều đến lo lót cho Hà Miêu một lần nữa để vào nói Hà Thái Hậu.
Hà Miêu vào cung tâu với Hà Thái Hậu:
- Bọn Thập Thường Thị lâu nay rất có công với triều chính, nay vì vô cớ tướng công Hà Tiến muốn diệt trừ họ e sanh ra rối loạn triều thần.
Hà Thái Hậu nghe nói khiến quân triệu Hà Tiến vào cung bảo:
- Tiên Ðế mới băng hà; việc triều chính còn nhiều rối lắm, không nên có ý làm hới các cựu thần mà sanh ra rối loạn.
Hà Tiến là kẻ không cương quyết nên nghe Hà Thái Hậu nói như vậy cũng phải vâng lệnh lui ra thuật lại ý kiến của Hà Thái Hậu cho Viên Thiệu nghe. Viên Thiệu nói:
-Lực lượng chúng ta bây giờ đâu có sợ bọn chúng. Nếu tướng công có nghi ngờ triệu tập các anh hùng hào kiệt trấn giữ khắp châu, quận rồi trở về cung mà giết sạch bọn chúng nó đi thì có lo gì bọn chúng phản ứng.
Hà Tiến nói:
- Kế ấy rất hay.
Rồi, ông tính phát các hịch văn triệu hồi các trấn về hợp sức.
Xảy có người bước tới cản ngăn:
- Theo ý ngu hạ thì việc ấy tướng công không nên làm, và người xưa có câu: "Che mắt mà bắt chim én". Việc nhỏ mọn như thế mà còn phải dùng đến mưu chước huống chi việc quốc gia đại sự. Nay Tướng công chấp chưởng binh quyền, muốn làm gì chẳng được mà Tướng Công phải tính như vậy. Hơn nữa anh hùng khắp nơi, mỗi người có đều có chí hướng riêng, phỏng như Tướng Công triệu họ về mà có một số người không tuân lệnh có phải Tướng Công cầm giáo mà lại trở cán cho thiên hạ không?
Hà Tiến nghe nói cười lớn và nói:
- Ngươi là kẻ hủ nho, kiến thức bao nhiêu mà dám cùng bàn đến đại sự.
Hà Tiến nói vừa dứt lời lại có một kẻ vỗ tay cười to, nói:
- Việc nhỏ như vậy mà cần chi phải bàn đi bàn lại cho thêm mệt.
Mọi người nghe nói quay lại thì thấy người ấy là Tào Tháo.

Hết Hồi Thứ Hai - Tam Quốc Chí - La Quán Trung

Hồi 03 - Tam Quốc Chí - La Quán Trung

Hồi Thứ Ba   - Tam Quốc Chí       La Quán Trung

Bàn phế lập, Ðổng Trác mắng Ðinh Nguyên
Tặng Xích thố, Lý Túc dụ Lữ Bố 

Nhắc lới Tào Tháo thấy Hà Tiến muốn gọi binh mã các nơi về triều, thì nói rằng:
- Xưa nay những bọn gian nịnh thì đời vua nào chẳng có, ấy là việc thường sự trong đời. Nhưng vì Vua gần đây quá sủng ái, cho chúng nó giữ quyền bính mà không nỡ tước bỏ, nên mới đến nỗi này. Còn muốn trừ chúng nó thì chỉ cần trị tội đứa cầm đầu là đủ, và chỉ cần một tên quản ngục bắt giam cũng xong. Việc gì phải triệu quân ngoài ùn ùn kéo về? Nếu cố giết hết bọn chúng, việc ắt tiết lộ. Tôi e rằng thất bại đấy.
Hà Tiến bực tức gắt:
- Mạnh Ðức cũng có một ý khác trong bụng nữa sao?
Tào Tháo bỏ ra ngoài, nói một mình:
- Kẻ làm cho thiên hạ loạn, chính là thằng Tiến.
Hà Tiến bèn ngầm sai sứ đem mật chiếu, ngày đêm đi tới các Trấn...
Ðây nhắc lới Tiền Tướng Quân Ngao Lương Hầu, Tây Lương Thứ Sử là Ðổng Trác vì trước kia đánh giặc Khăn Vàng không có công lao gì, bị thua luôn Trương Giác mấy trận nên triều đình triệu về buộc tội. Nhưng Trác đã đem của đút lót cho bọn Thập Thường Thị nên khỏi tội.
Sau lại khéo luồn cúi bọn quyền quý trong triều nên Trác lới được thăng quan vùn vụt: từ Trung Lang Tướng, nhảy lên Tiền Tướng Quân, Ngao Hương Hầu, Tây Lương Thứ Sử!
Từ lúc trấn thủ ở ngoài, trong tay thống lãnh hơn hai mươi vạn quân tới Tây Lương, Ðổng Trác đã có lòng phản nghịch, nhưng chưa dám.
Lúc ấy, lại được chiếu triệu về, thật là dịp may hiếm có, Ðổng Trác mừng như cọp gặp mồi, liền điểm binh mã, lục tục kéo về triều. Trác cử con rể là Ngưu Phụ làm Trung Lang Tướng ở lại trấn đóng Thiểm Tây, còn mình tự dẫn Lý Thôi, Quách Dĩ, Phàn Trù, Trương Tế đều nhắm Lộc Dương tấn phát.
Mưu sĩ Lý Nhu, cũng là con rể của Ðổng Trác, bàn rằng:
- Nay mặc dầu tuy có chiếu triệu , song việc nầy xem ra có hơi ám muội, nếu muốn nên việc lớn thì phải sai người dâng biểu làm cho danh chánh ngôn thuận thì mới xong.
Ðổng Trác nghe Lý Nhu nói thế, cười vang:
- Mưu sĩ thật đáng là kẻ tài ba xuất chúng.
Nói rồi, Ðổng Trác lập tức làm sớ như sau:
"Nay trộm nghe triều đình lộn xộn, dân chúng oán than bởi lũ Thập Thường Thị ỷ quyền thế, hiếp chế vua nên mới sanh ra như vậy. Giết rắn không nên chừa độc, đốn cây phải bại cho tận gốc. Mổ nhọt tuy đau nhưng một lần lành bệnh còn hơn nuôi dưỡng bệnh hoạn trong mình. Nay Hạ thần xin khua chiêng gióng trống, đem binh về Lộc Dương quyết diệt trừ bọn Trương Nhượng để cứu nguy cho xã tắc, cho thiên hạ được an, ấy là vạn hạnh."
Hà Tiến tiếp được biểu ấy, vội vã triệu tập các quan văn võ đến thương nghị. Quan Thị Ngự Sử là Trịnh Thái can rằng:
- Ðổng Trác là giống sài lang, nếu để hắn về triều, ắt nó sẽ ăn thịt người.
Hà Tiến nhìn Trịnh Thái cười:
- Ngươi lấy chi làm bằng cớ. Công việc lớn mà đa nghi như thế thì bao giờ mới thành sự được.
Lư Thực thấy vậy, bước ra can:
- Tôi vốn biết Ðổng Trác là hạng mặt người mà lòng thú dữ, một khi vào cấm đình sẽ gây họa hoạn. Phải mau mau chận hắn lại, đừng cho vào, thì mới được yên.
Các quan văn võ đều cố can ngăn Hà Tiến, nhưng Tiến vẫn khăng khăng một mực không nghe.
Trịnh Thái, Lư Thực đều bỏ quan mà về. Các quan đại thần thấy vậy, cũng lần lượt bỏ đi quá nửa. 
Hà Tiến lại cho người đi đón Ðổng Trác tới Dẵn Trì. Trác đóng quân lại, không tiến nữa.
Bọn Trương Nhượng hay được việc ấy, liền bàn với nhau:
- Ấy là mưu của Hà Tiến. Chúng ta hiện bây giờ như cá nằm trong chậu, nếu chẳng lo ra tay trước, đợi nước đến trôn mới nhảy thì sẽ bị chết ba họ.
Liền cho năm mươi tên đao phủ mai phục ở cung Trường Lộc, phía trong điện Gia Ðức, rồi kéo cả bọn vào quỳ trước mặt Hà Thái Hậu, khóc lóc thưa:
- Nay Ðại Tướng quân phát chiếu triệu quân ngoài về kinh để giết lũ thần. Vậy mong Thái Hậu mở lòng từ bi, cứu mạng cho.
Hà Thái Hậu nói:
- Việc ấy bọn ngươi hãy đến phủ Ðại Tướng quân mà tạ tội để cho người cứu vớt cho.
Bọn Trương Nhượng vừa khóc vừa nói:
  - Nếu lũ Hạ thần đem thân tới Tướng phủ, ắt sẽ nát thịt tan xương ngay. Xin Thái Hậu thương chúng tôi mà tuyên triệu Ðại Tướng quân vào cung mà phủ dụ. Nếu bấy giờ, Ðại Tướng quân không nghe nữa, thì lũ thần xin chịu chết trước mặt Thái hậu.
Thái hậu liền giáng chiếu đòi Hà Tiến vào. Tiến được chiếu, vừa muốn ra đi thì Trần Lâm can:
- Chiếu của Thái hậu đây ắt là mưu của lũ Thập Thường Thị, thiết nghĩ không nên vào. Vào ắt mang họa.
Tiến nói:
- Rõ ràng là chiếu của Thái hậu đây, sợ tai vạ gì nữa?
Viên Thiệu cũng xen vào:
- Nay cơ mưu đã bại lộ, Ðại Tướng quân còn vào cung làm gì?
Tào Tháo nói:
- Hãy đòi hết lũ Thập Thường Thị ra đây rồi Ðại Tướng quân sẽ vào thì chẳng can chi.
Nhưng Hà Tiến gạt đi:
- Ðó là ý kiến trẻ con. Ta nắm việc thiên hạ trong tay, lũ Thập Thường Thị dám động đến mình ta sao? Các người đừng nghi ngờ như thế!
Viên Thiệu nói:
- Nếu Ðại Tướng Quân muốn vào thì chúng tôi xin dẫn giáp sĩ theo hộ tống, để phòng bất trắc.
Nói rồi, Viên Thiệu, Tào Tháo mỗi người nai nịt hẳn hòi, đem binh khí theo mình, lới tuyển năm trăm tinh binh, giao cho em Thiệu là Viên Thuật chỉ huy. Viên Thuật nai nịt gọn ghẽ, đem binh mai phục nơi Thanh Tỏa. Còn Tháo và Thiệu cầm gươm hộ tống Tiến vào trước cung Trường Lộc.
Vừa đến cửa cung thì có Hoàng Môn Quan truyền chỉ rằng:
- Thái Hậu chỉ vời một mình Ðại Tướng quân. Ngoài ra, không ai được vào.
Thế là Thiệu và Tháo bị cản lới ngoài cửa. Còn Hà Tiến cứ ngang nhiên vào không có chút e ngại...
Khi đến trước điện Gia Ðức thì bỗng bọn Trương Nhượng, Ðoàn Khuê xong ra đón chặn, miệng hô tả hữu vây chặt. Trương Nhượng lớn tiếng mắng:
- Bớ Hà Tiến! Ðổng Thái Hậu có tội gì mà mày nỡ phục độc giết hại? Ngày lễ táng vị Quốc Mẫu, sao mày giả đau không thèm ra dự? Mày chỉ là đồ con nhà hàng thịt hèn hạ, nhờ có bọn tao tiến cử lên Thiên Tử, mày mới được tôn quý đến mực này chứ! Thế mà mày đã không nghĩ đến báo đáp thì thôi, sao lới còn mưu hại bọn ta? Mày chửi bọn ta là đồ ô trọc, vậy thì ai là mặt thanh cao?
Bây giờ Hà Tiến mới biết nguy, vội tìm lối thoát nhưng các cửa cung đều đóng chặt. Hà Tiến chưa biết xử trí cách nào, đã bị phục quân đổ ra chém Tiến một đao đứt làm hai đoạn.
Người sau có thơ rằng:

 Vận Hán lâm nguy, khiến giữa trào,
Ngu như Hà Tiến nắm quyền cao.
Khù khờ chẳng chịu nghe can gián,
Mắc nạn trong đền, chết dưới đao.
Bên ngoài Viên Thiệu, Tào Tháo đứng đợi mãi không thấy Hà Tiến trở ra, trong lòng sanh nghi.
Viên Thiệu bèn hô lớn:
- Mời Ðại Tướng quân lên xe trở về!
Bỗng bọn Trương Nhượng xách thủ cấp của Hà Tiến ném qua mặt tường ra ngoài, rồi lên tiếng tuyên dụ:
- Ðứa ngịch thần Hà Tiến mưu phản, đã bị giết rồi, còn tất cả bọn a tòng đều được tha thứ.
Nghe nói, Viên Thiệu đùng đùng nổi giận, thét lớn:
- Bọn yêm hoạn dám mưu sát đại thần! Ai muốn tru diệt ác đảng, phò xã tắc, hãy tới đây trợ chiến.
Bộ tướng của Tiến là Ngô Khuông liền nổi lửa đốt cửa Thanh Tỏa. Viên Thuật liền dẫn binh sấn vào trong cung, hễ gặp tên yêm hoạn nào là giết liền, chẳng kể lớn nhỏ già trẻ.
Viên Thiệu, Tào Tháo cũng vung gươm, chém khóa phá cửa, xông vào trong cung, lại gặp bọn Triệu Trung, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng toan chạy, liền đuổi đến Thúy Hoa Lâu, rồi bằm thây bọn nầy nát như tương.
Lúc ấy, trong cung đình lửa cháy ngất trời. Bọn Trương Nhượng, Ðoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm bốn tên lập tức băng mình theo khói lửa, ép Thái hậu, Thiếu Ðế, và Trần Lưu Vương ra phía nội tỉnh, theo lối sau, chạy về Bắc Cung.
Nói về Lư Thực tuy đã bỏ quan tước, nhưng cũng còn ở tại triều, lúc bấy giờ nghe trong cung có biến, liền mặc giáp cầm thương, chạy tới chờ ở dưới lầu. Vừa gặp Ðoàn Khuê đem Hà Thái Hậu chạy tới, Lư Thực thét lớn:
- Nghịch tặc! Mày bức bách Thái Hậu đi đâu?
Khuê quay đầu chạy trốn. Hà Thái Hậu liều nhào qua cửa sổ nhảy ra, được Lư Thực cứu thoát.
Ngô Khuông chém giết tới nội đình thì gặp Hà Miêu cầm gươm chạy ra. Khuông hô lớn:
- Thằng Miêu đồng mưu hại anh, hãy giết nó đi!
Quân sĩ đồng thanh hô theo:
- Mau chém thằng giặc phản anh!
Miêu toan chạy, nhưng bốn mặt quân vây kín, băm xác ra như bùn.
Viên Thiệu lới sai quân sĩ chia nhau lùng bắt các gia thuộc của mười tên Thường Thị, bất luận lớn nhỏ đều giết hết. 
Lúc ấy, tất cả những người không có râu, đều bị nghi là gia quyến của Thập Thường Thị, nên bị giết lầm vô số.
Còn, Tào Tháo thì lo chữa lửa trong cung, cho mời Thái Hậu về triều để nhiếp chánh việc nước. Mặt khác, Tháo sai quân đuổi theo bọn Trương Nhượng để tìm vua Thiếu Ðế.
Nói về Trương Nhượng, Ðoàn Khuê cướp Vua và Trần Lưu Vương, băng qua khói lửa, suốt đêm chạy không nghỉ ra núi Bắc Mang.
Vào khoảng canh ba, bỗng nghe mặt sau có tiếng quân reo ó vang trời, một đoàn binh mã đuổi tới. Thì ra là quan Trung Bộ Duyện Lại ở Hà Nam là Mẫn Cống. Cống phóng ngựa lên chẹn đường, thét lớn:
- Phản thần chớ chạy ! Có ta đến để bắt chúng bây đây !
Trương Nhượng hoảng vía, biết đã đến nước cuối cùng không thể nào trốn thoát được nữa, liền liều mạng nhảy xuống sông tự tử.
Còn Vua và Trần Lưu Vương bơ vơ một mình, chẳng biết việc hung kiết thế nào, nên không dám lên tiếng. Cả hai dắt nhau nép mình nơi bờ sông, trong đám cỏ gai gần đấy.
Mẫn Cống không thấy Vua đâu, bèn phân quân đi tứ tán kiếm tìm, nhưng rốt cuộc không thấy, đành phải kéo nhau trở về.
Còn Vua và Trần Lưu Vương núp đó chờ cho đến đầu canh tư, thấy bốn bề vắng vẻ mới dám bò ra. Ðêm ấy, sương xuống như mưa, hai người lạnh lẽo đói khát, buồn khổ ôm nhau mà khóc. Nhưng lại sợ có người hay được nên không dám khóc to.
Trần Lưu Vương nói vại Vua:
- Chốn nầy không thể ở lâu được, phải đi nơi khác gấp, mới sống được.
Thế là Vua và Trần Lưu Vương lấy chéo áo buộc lới vại nhau cho khỏi lạc, rồi mò mẫm lên mặt đê, gai góc đây đất, cố mà len chân, nhưng bóng tối dầy đặc không nhìn thấy đường lối gì cả. Trong lúc đang lo sợ, bỗng có hàng ngàn đom đóm tụ tập lới, chiếu tỏa sáng như sao sa trước mặt Vua.
Thấy vậy, Trần Lưu Vương nói:
- Hoàng huynh ơi, đây là trời giúp anh em ta!
Liền theo ánh sáng đom đóm mà đi, dần dần tìm thấy con đường. Tới canh năm thì chân đau quá, không thể đi được nữa, thấy bên chân núi có một gò cỏ cao, Thiếu Ðế và Trần Lưu Vương đành tạm ẩn vào trong gò ấy.
Gò này nằm ngay phía sau một trang viện. Trang chủ đêm ấy nằm mộng thấy có hai bóng mặt trời sa xuống đồng cỏ sau nhà, liền giật mình thức giấc, vội mặc áo ra ngoài, nhìn ngó bốn phía, thấy trên gò phía sau trang có hồng quan rực trời. Trang chủ lòng hoang mang kinh lạ, vội tới xem thì thấy có hai thiếu niên nằm trong đám cỏ, bèn hỏi:
- Hai cậu là con nhà ai?
Thiếu Ðế lo sợ, không dám nói gì. Trần Lưu Vương trỏ vào anh mà đáp:
- Ðây chính là đương kim Hoàng đế, vì bị bọn Thập Thường Thị làm loạn nên phải lánh mình nơi đây. Còn ta là Hoàng đệ Trần Lưu Vương.
Trang chủ nghe nói thất kinh, vội sụp xuống đất lạy hai lạy, rồi thưa:
- Hạ thần tên là Thôi Nghị, em của quan Tư Ðồ Thôi Liệt, nhân vì bọn Thập Thường Thị buôn quan bán tước, ghét người hiền, nên Hạ thần mới buồn lòng về ẩn dật nơi đây.
Nói xong phò Vua về nhà dâng rượu thịt cho vua dùng đỡ đói.
Nói về Mẫn Cống đuổi theo Ðoàn Khuê, khi trời hừng sáng thì bắt được được Ðoàn Khuê, liền cật vấn:
- Thiên tử ở đâu?
Khuê khai rằng khi chạy tới nửa đường thì lạc mất, không biết Vua đi về phía nào nữa. Mẫn Cống liền giết Ðoàn Khuê, cắt lấy đầu, treo dưới cổ ngựa, rồi chia quân đi bốn mặt tìm kiếm. Còn Mẫn Cống thì một mình một ngựa, lần đi hỏi dò.
Bỗng Cống đi tới nhà Thôi Nghị. Nghị ra đón, thấy một chiếc thủ cấp treo lủng lẳng trên cổ ngựa, liền hỏi duyên cớ. Cống thuật lại rõ ràng. Thôi Nghị mới dẫn Cống vào ra mắt Vua. Chúa tôi cùng khóc.
Mẫn Cống tâu:
- Một ngày không thể thiếu Vua. Xin Bệ Hạ hãy hồi triều.
Bấy giờ nhà Thôi Nghị chỉ có một con ngựa gầy, để riêng Vua ngự. Trần Lưu Vương phải cưỡi chung ngựa với Mẫn Cống.
Ði được vài dặm gặp được Tư Ðồ Vương Doãn, Thái Úy Dương Bưu, Tả Quân Hiệu Úy Thuần Vu Quỳnh, Hữu Quân Hiệu Úy Triệu Manh, Hậu Quân Hiệu Úy Bảo Tín, Trung Quân Hiệu Úy Viên Thiệu cùng một đoàn khoảng trăm người ngựa đến nghinh tiếp thánh giá.
Mừng mừng tủi tủi, Vua tôi đều khóc. Trước hết, các quan sai đem thủ cấp Ðoàn Khuê về bêu ngoài cửa thành làm lệnh. Rồi chọn ngựa tốt để Thiếu Ðế và Trần Lưu Vương ngự, cùng rước về kinh.
Trước đó ít lâu, trẻ con ở Lộc dương thường hát mấy câu đồng dao rằng:
 
Ðế không ra đế,
Vương chẳng phải Vương.
Ngàn xe vạn ngựa,
Chạy đến Bắc mang.
Tức là điềm sau này đế bị truất làm Vương, Vương được lên ngôi đế. đến bấy giờ biết ứng nghiệm vào việc đó.
Xa giá đi chưa được vài dặm, bỗng đàng xa có tiếng trống vang lừng, tinh kỳ rợp đất, bụi bay mù trời, rồi một đoàn binh mã ào ào kéo đến.
Bá quan đều thất sắc. Vua cũng sợ hãi. Viên Thiệu vội thúc ngựa ra trước thét hỏi:
- Binh mã của ai đấy?
Từ dưới bóng ngọn cờ thêu rực rỡ, một tướng bên kia thúc ngựa ra, lớn tiếng hỏi lại:
- Thiên tử đâu?
Vua càng sợ, không dám lên tiếng. Trần Lưu Vương quất ngựa sấn ra, nớt rằng:
- Nhà ngươi là ai?
Tướng ấy đáp:
- Thứ Sử Tây Lương là Ðổng Trác đây.
Trần Lưu Vương gằn giọng hỏi:
- Ngươi đến đây bảo giá hay cướp giá?
Thấy vẻ mặt oai nghiêm của Trần Lưu Vương, Ðổng Trác khiếp sợ, thưa:
- Hạ thần đến đây để bảo giá.
Trần Lưu Vương hạch rằng:
- Ðã tới hộ giá, vậy Thiên Tử ngồi kia, sao ngươi không xuống ngựa mà thi lễ?
Ðổng Trác sợ hãi, lật đật xuống ngựa, khấu đầu bên đường, miệng tung hô "vạn tuế". Trần Lưu Vương lại lấy lời ngọt ngào mà phủ úy Ðổng Trác. Từ đầu chí cuối, lời lẽ đường hoàng, không ngập ngừng lầm lỡ một tiếng nào.
Ðổng Trác thầm lấy làm lạ, sinh lòng khâm phục vô cùng. Và từ đó, Trác đã có ý định phế Thiếu Ðế mà lập Trần Lưu Vương lên làm vua.
Hôm ấy, các quan phò Thiếu Ðế về cung ra mắt Hà Thái Hậu. Mẹ con khóc lóc với nhau, mọi người đều ứa lệ. Khi kiểm điểm lới trong cung, không thấy cái ấn ngọc "truyền quốc" ở đâu nữa!
Bấy giờ Ðổng Trác đem binh đóng ngoài thành. Ngày ngày dẫn giáp sĩ cưỡi ngựa vào thành, hoành hành khắp phố xá, chợ búa. Nhân dân trăm họ lo sợ, hoang mang. Trác lại ra vào tự do nơi chốn cung đình, không kiêng kỵ gì hết. Quan Hậu Quân Hiệu Úy là Bảo Tín tới bảo Viên Thiệu:
- Ðổng Trác ắt manh tâm làm loạn, nên kíp trừ đi.
Viên Thiệu nói:
- Triều đình đã bị hoang mang, nay vừa mới được yên, chớ nên khinh động.
Bảo Tín lới tới gặp Vương Doãn để bàn về việc ấy. Doãn cũng nói:
- Hãy thong thả, để tính kỹ xem đã.
Bảo Tín thấy tình thế như vậy, liền bỏ triều đình, kéo hết quân bản bộ vào núi Thái Sơn.
Nói về Ðổng Trác lại đi chiêu dụ bọn bộ Hạ anh em Hà Tiến. Bao nhiêu binh mã của họ Hà đều về tay Trác hết.
Ngày kia, Ðổng Trác bàn riêng vội hỏi Lý Nhu:
- Ta muốn phế bỏ Vua xuống mà lập Trần Lưu Vương lên ngôi có được chăng?
Lý Nhu nói:
- Nay đang lúc triều đình vô chủ, nên thừa thời cơ mà làm gấp đi, nếu để chậm e sinh biến. Ngày mai hãy triệu tập bá quan tới điện Ôn Minh trong vườn, nói rõ việc phế lập. Kẻ nào không nghe theo, cứ chém đầu. Lấy quyền uy mà làm, kế sách hiện tới phải thế mới xong.
Ðổng Trác nghe nói, lòng mừng khấp khởi. Qua hôm sau, khiến quân bày yến tiệc nơi vườn Ôn Minh và mời tất cả các quan đại thần đến đó để phó hội. Các quan lúc nầy đều sợ Ðổng Trác, nên không có ai dám từ chối. Trác để cho các quan tới đông đủ rồi mới cỡi ngựa thẳng đến trước cửa viên mới chịu xuống ngựa, lại mang gươm vào tiệc.
Uống vừa đặng vài tuần rượu, Trác ra lệnh ngừng rót, im tiếng nhạc, rồi lớn tiếng nói:
- Hôm nay ta mời các quan đến đây với mục đích là bày tỏ một ý kiến.
Bá quan ai nấy cũng đều lắng tai nghe, Trác nói tiếp:
- Thiên tử là chúa tể muôn dân, nếu không có uy nghi xứng đáng, không thể phụng sự tông miếu, xã tắc được. Nay đức Kim Thượng là kẻ nhu nhược không đáng mặt cầm quyền chấp chánh. Còn Trần Lưu Vương vốn là bậc thông minh, hiếu học, có đủ tài đức để trị dân, đáng mặt kế vị ngôi cả. Vậy ý ta muốn phế Vua, mà lập Trần Lưu Vương lên ngôi báu, chẳng hay ý các quan đới thần nghĩ như thế nào?
Các quan đại thần nghe nói đều im lặng, chưa ai dám nói gì, bỗng có một người đứng dậy, xô ghế bước ra nói lớn:
- Không được! Không được! Ngươi là hạng người gì mà dám làm đại ngôn như thế? Vả chăng đức Kim Thượng là con trưởng của Tiên Ðế, sửa trị ngôi trời là lẽ phải, vả lại Người cũng chưa có việc gì lỗi lầm thì sao ngươi dám nghĩ đến chuyện phế lập? Ngươi muốn mưu đồ soán nghịch chăng?
Các quan chăm chú nhìn ra người ấy là quan Thứ Sử Kinh Châu Ðinh Nguyên, Trác nổi giận nạt lớn:
- Nơi đây nếu có kẻ nào nghịch ý ta thì chắc không còn tánh mạng.
Cả tiệc rượu ai nấy nhao nhao, còn Ðổng Trác cầm gươm toan bước tới chém Ðinh Nguyên.
Lúc ấy, Lý Nhu đứng thấy sau lưng Ðinh Nguyên có một người khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt, tay cầm một cây "Phương thiên họa kích", trừng trừng con mắt mà nhìn Ðổng Trác. Nho biết việc chẳng xong, liền bước đến giả vờ can Ðổng Trác:
- Hôm nay trong yến ẩm không nên đem việc nước ra bàn, vậy xin để ngày mai cũng chẳng muộn.
Các quan cùng khuyên giải Ðinh Nguyên, nên Ðinh Nguyên xô ghế bỏ ra về.
Ðổng Trác tay vẫn cầm kiếm, quay lại hỏi các quan:
- Lời ta nói có hợp công đạo hay không?
Lư Thực bước ra, nghiêm nghị nói:
- Ông nói sai rồi. Việc phế lập vua phải có duyên cớ. Xưa vua Thái Giáp vì bất minh nên ông Y Doãn mới đuổi ra Ðồng cung. Xương Ấp Vương lên ngôi mới có hai mươi bảy ngày mà làm hơn ba mươi điều ác, nên ông Hoắt Quang mới phải tế cáo nhà Thái Miếu mà phế đi. Nay Thánh Thượng tuy còn thơ ấu nhưng thông minh nhân trí, chưa lầm lỗi mảy may. Ông chỉ là một vị quan ở ngoài, chưa từng tham dự triều chính, lới không có tài như Y Doãn, Hoắt Quang, mà dám bàn đến chuyện phế lập sao được? Thánh nhân có dạy rằng: "Có chí như Y Doãn thì được. Không có chí như Y Doãn mà bắt chước làm Y Doãn, ấy là kẻ soán nghịch."
Ðổng Trác nổi giận rút gươm toan chém Lư Thực, thì quan Nghị lang là Bành Bá vội can:
- Lư Thượng thư là bậc có danh vọng, hải nội chư nhân đều mong mỏi. Nếu giết đi, e làm náo động thiên hạ.
Bấy giờ Trác mới ngừng tay. Quan Tư Ðồ Vương Doãn nói:
- Việc phế lập rất quan trọng, không nên đem bàn lúc trà dư tửu hậu. Ðể một ngày khác.
Khi tiệc tan, bá quan ra về, Trác mặt còn hầm hầm, tay cầm gươm đứng ở viên môn. Bỗng Trác thấy có một người lực lưỡng, cầm kích rong ngựa đi đi lới lới phía ngoài, bèn hỏi Lý Nhu:
- Người nào đấy?
Lý Nhu đáp:
- Ðó là con nuôi của Ðinh Nguyên, họ Lữ tên Bố, tự là Phụng Tiên, người ấy là một anh hùng trên đời có một không hai. Tướng quân nên tránh nó kẻo mang họa.
Ðổng Trác nghe nói liền lánh mặt vào trong vườn.
Rạng ngày có quân vào báo vại Ðổng Trác:
- Quân của Ðinh Nguyên đến bên thành khiêu chiến đòi Tướng Quân phải ra binh.
Ðổng Trác tức giận, hiệp với Lý Nhu dẫn quân ra thành nghênh chiến.
Hai bên giàn trận, rồi thấy Lữ Bố hiện ra, đầu búi tóc, đội kim quan, mình mặc bào gấm trăm hoa lồng giáp đường nghê, lưng thắt bảo đới Ti loan, tay cầm tay cầm Phương Thiên Họa Kích, giục ngựa phò Ðinh Nguyên ra trước trận.
Ðinh Nguyên chỉ vào mặt Ðổng Trác mắng:
- Quốc gia gặp lúc không may, lũ yêm hoạn lộng quyền đến nỗi muôn dân đồ thán, mi không hề có thước tấc công lao nào, sao dám nói càn chuyện phế lập, làm loạn triều đình?
Ðổng Trác chưa kịp trả lời thì sau lưng Ðinh Nguyên, Lữ Bố đã phi ngựa vung kích đánh tràn sang. Binh tướng của Ðổng Trác không một người nào dám ra nghinh địch. Cây kích của Lữ Bố đến đâu là quân Trác chết đến đó, làm cho quân của Ðổng Trác cả loạn. Trác hoảng sợ quay đầu chạy. Ðinh Nguyên thúc quân đánh giết. Quân Trác đại bại một trận, phải lui hơn ba mươi dặm mới dám hạ trại, kiểm điểm binh mã thấy hao hơn phân nửa.
Trác họp các tướng, bàn rằng:
- Ta thấy Lữ Bố quả là tay phi thường. Nếu được người ấy, ta còn lo gì việc thiên hạ?
Trong lúc ấy có một người bước đến thưa:
- Chúa công đừng lo. Tôi với Lữ Bố vốn cùng quê quán, biết rõ hắn tuy có tài xuất chúng, song là kẻ hữu dũng vô mưu, thấy lợi mà quên nghĩa. Vậy tôi xin đem ba tất lưỡi đi thuyết, khiến hắn phải chắp tay về hàng Chúa công.
Trác nghe nói mừng rỡ, xem lới thì thấy người ấy là Hổ Bôn Trung Lang Tướng Lý Túc. Trác hỏi:
- Cần đem theo vật gì để dụ hắn?
Túc nói:
- Tôi nghe Chúa công có con ngựa Xích Thố, ngày đi ngàn dặm. Nếu được ngựa ấy với ít vàng ngọc để lấy lòng hắn, rồi tôi lựa lời thuyết dụ, ắt Lữ Bố phản Ðinh Nguyên, hàng Chúa công.
Trác hỏi Lý Nhu:
- Ý ấy thế nào?
Nhu đáp:
- Chúa công muốn gồm thâu thiên hạ lại tiếc chi một con ngựa.
Trác nghe nói, truyền quân dắt con ngựa Xích Thố đến, lới cho lấy ra một ngàn lạng vàng, mươi hạt minh châu, và một cái đai ngọc giao cho Túc.
Túc tức thì mang tất cả lễ vật thẳng đến trới Lữ Bố. Dọc đường bị quân phục bao vây, Túc nói:
- Các ngươi kíp vào báo với Lữ Tướng quân rằng: "Có cố nhân muốn đến thăm."
Quân vào báo, Bố ra lệnh cho Túc vào. Chào hỏi xong, Túc nói:
- Bấy lâu nay xa cách hiền đệ, tôi rất thương nhớ, khi biết được hiền đệ ở đây nên tôi đến thăm viếng. Nay thấy hiền đệ vẫn khang kiện, tôi rất mừng.
Lữ Bố nắm tay Lý Túc thân mật nói:
- Ðã hằng lâu xa cách nhau, nay hiền huynh ở nơi nào?
Lý Túc đáp:
- Hiện nay tiện huynh đang làm chức Hổ Bôn Trung Lang Tướng, nghe hiền đệ có lòng khuôn phò xã tắc nên tiện huynh vui mừng khôn xiết. Nay có một con ngựa quý, ngày đi ngàn dặm có dư, lới có tài vượt nước trèo non như đi trên đất bằng, tên là Xích Thố, nên đem tới biếu cho hiền đệ, để thêm oai cho hùm đây.
  Lữ Bố bèn khiến quân dắt ngựa đến, quả nhiên con ngựa ấy cả mình đều đỏ như lửa, không bợn một sợi lông tạp màu. Từ đầu tới đuôi dài một trượng, từ móng lên đầu cao tám thước. Rồi bỗng nó gầm hí vang rền, giậm vó rung mặt đất, như sắp bay bổng lên không, băng mình qua bể vậỵ
Người sau có thơ vịnh ngựa Xích thố rằng:

Ngàn dặm phi đằng, cát bụi tung,
Băng sông vượt núi, xé sương hồng.
Khác chi rồng lửa trên trời xuống,
Muốn rứt cương tơ, vỡ nhạc đồng.
Lữ Bố thấy ngựa tốt, lòng mừng khấp khởi, bèn tạ ơn Lý Túc:
- Hiền huynh có lòng tốt, cho con ngựa quý này, tôi chẳng biết lấy gì báo đáp?
Lý Túc nói:
- Tôi vì nghĩa khí mà đến đây há cần đâu ân huệ?
Bố sai dọn rượu thết đãi. Rượu ngà ngà, Túc nói:
- Tuy ít gặp hiền đệ, nhưng lệnh tôn thì Túc được gặp luôn.
Bố đáp:
- Hiền huynh say rồi! Cha tôi đã mất từ lâu, còn gặp làm sao được?
Túc cười lớn:
- Không phải thế. Tôi nói "lệnh tôn" tức là Ðinh Thứ Sử đấy chứ.
Bố buồn bã nói:
- Tôi theo Ðinh Kiến Dương cũng là bất đắc dĩ, bỏ đi chưa nỡ đấy thôi!
Túc nói:
- Hiền đệ là người tài ba lỗi lạc, sức mạnh hơn người, anh hùng xuất chúng, bốn bể biết tên. Lẽ ra phải được hưởng chức trọng quyền cao, có lý đâu lới phải cam chịu ở dưới trướng người ta vậy?
Lữ Bố nói:
- Tôi cũng muốn thế, ngặt vì chưa gặp được một đấng minh quân.
Lý Túc cười bảo:
- Chim khôn lựa cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nếu không sớm tìm thời cơ, e khi hối ra thì đã muộn đấy.
Bố hỏi:
- Hiền huynh đã ở trong triều, vậy có thấy ai xứng đáng là anh hùng đời nay?
Túc đáp:
- Hiện tới triều đình, các đới thần ai nấy tranh giành ngôi thứ, Vua thì còn nhỏ bị kẻ sàm nịnh chiếm đoạt quyền hành. Tôi thấy khắp mặt bá quan, không ai bằng Ðổng công. Ðổng công là người biết kính hiền ái sĩ, thưởng phạt công minh, lới có lòng diệt nịnh phò Vua. Thế nào về sau cũng nên nghiệp lớn, vậy hiền đệ còn đợi gì mà không theo phò để lập thân.
Lữ Bố nói:
- Tôi cũng muốn theo về Ðổng công ngặt vì không ai tiến cử.
Bấy giờ, Túc biết công việc đã có kết quả, lập tức đem cái đai ngọc và vàng bạc bày ra trước mặt Lữ Bố.
Bố giật mình hỏi:
- Hiền huynh đem những thứ này tới làm gì?
Túc bảo cho tả hữu lui hết ra ngoài, rồi mới nói:
- Ðây là của Ðổng công. Ðổng công mộ tiếng lớn của hiền đệ từ lâu. Nay sai Túc này đem lễ vật tới kính biếu. Con Xích Thố kia cũng là của Ðổng công sai đem tặng hiền đệ vậy.
Bố nói:
- Ðổng công có lòng yêu thế này, tôi biết lấy gì đền đáp?
Túc nói:
- Tài thường sức mọn như Túc này, mà còn được phong chức Hổ Bôn Trung Lang Tướng, thì tài như hiền đệ, nếu theo về, ắt được quyền cao chức trọng, phú quý chưa biết đến bậc nào?
Bố ngần ngừ nói:
- Tôi chưa có chút công trạng nào mà làm lễ ra mắt Ðổng công. Khó nghĩ quá.
Túc lửng lơ nói:
- Công trạng ấy đối với người khác thì khó thật, chứ như đối với hiền đệ thì dễ như trở bàn tay, có gì mà phải lo. Chỉ sợ hiền đệ không chịu làm đấy thôi.
Bố trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Tôi muốn giết Ðinh Nguyên rồi dẫn quân ra hàng Ðổng công, chẳng biết có nên không? Hiền huynh xét thử?
Túc vội xuýt xoa nói:
- Hiền đệ làm được việc ấy thì còn công nào lớn bằng. Nhưng việc đó cốt phải khẩn mật mới được.
Bố hẹn với Túc nội trong đêm ấy thế nào cũng xong việc. Túc rất hoan hỉ, từ giã ra về.
Ðêm ấy, vào lúc canh hai, Lữ Bố cầm gươm bước vào trong trướng Ðinh Nguyên. Lúc ấy, Nguyên đang thức chong đèn xem sách, thấy Bố vào, bèn hỏi:
- Ðêm khuya, con vào đây có việc gì?
Bố trở mặt mắng rằng:
- Ta đường đường một kẻ trượng phu, há lại đi làm con của ngươi sao?
Nguyên kinh ngớc, trố mắt nhìn Bố hỏi:
- Phụng Tiên, cớ sao con lại đổi lòng như vậy?
Bố chẳng đáp chẳng rằng, bước tới vung gươm chém Ðinh Nguyên một nhát, đầu rơi xuống đất.
Người sau có thơ than Ðinh Nguyên rằng:

Thuơng thay! Hán mạt có Ðinh công,
Nuôi được con tài, tưởng cậy trông...
Ai biết nòi nào ra giống ấy,
Nuôi hùm, hùm cắn, xót xa lòng.
Lại có thơ than Lữ Bố rằng:

Tiếc thay! Mặt đẹp, lực vô song,
Cử đỉnh bớt sơn nức tiếng hùng.
Quen thói bạo tàn, không chút nghĩa,
Trách gì thiên hạ chẳng ai dung.
Chém xong, Lữ Bố xách đầu Ðinh Nguyên ra ngoài, hô lớn:
- Ðinh Nguyên là kẻ bất nhân vô đạo, ta đã giết chết rồi. Vậy thì ai muốn theo ta thì theo, ai không theo thì cứ tự tìm chỗ khác mà đi.
Quân sĩ thấy vậy bỏ đi hơn phân nửa. Hôm sau, Lữ Bố xách đầu Ðinh Nguyên đến gặp Lý Túc. Túc vội dẫn Bố vào dinh ra mắt Ðổng Trác.
Ðổng Trác lòng mừng khôn xiết, hối quân bày rượu thịt thết đãi Lữ Bố, và bước đến trước mặt Bố, cúi đầu nói:
- Trác này được Tướng quân hôm nay chẳng khác đại hạn gặp mưa rào vậy.
Lữ Bố vội vàng đứng dậy thi lễ, mời Trác ngồi lên, rồi sụp lạy mà tạ rằng:
- Minh công đãi Bố này rất hậu, ơn ấy không biết lấy gì đền đáp. Nếu Minh công cho phép, Bố này xin bái Minh công làm nghĩa phụ.
Trác mừng lắm, sai lấy giáp vàng, bào gấm ban thưởng cho Bố, rồi cùng Bố yến ẩm say sưa tối ngày.
Từ đó, Ðổng Trác oai quyền lừng lẫy, không biết nể nang ai nữa. Trác tự lĩnh công việc của Tiền Tướng Quân, phong cho em ruột là Ðổng Mân làm Tả Tướng Quân tước Hổ Hầu, phong cho Lữ Bố làm Kỵ Ðô Úy Trung Lang Tướng tước Ðô Ðình Hầu.
Lý Nhu khuyên Trác sớm định ngay mưu kế phế lập. Trác liền lập tiệc tới đình trung, rồi viết thiệp mời các quan đến phó yến. Lại sai Lữ Bố dẫn hơn ngàn quân giáp sĩ, nai nịt đầy đủ, mai phục xung quanh.
Hôm ấy, quan Thái Phó Viên Ngỗi cùng bá quan đều đến. Rượu được vài tuần, Ðổng Trác đứng dậy chống gươm nói:
- Nay Vua nhu nhược, hôn ám, không thể phụng sự tôn miếu được. Ta noi gương Y Doãn, Hoắt Quang, phế Vua xuống làm Hoằng Nông Vương, lập Trần Lưu Vương lên làm Hoàng đế. Ai không thuận, ta chém đầu?
Quần thần sợ hãi ngồi lặng thinh. Trung Quân Hiệu Úy Viên Thiệu đứng dậy, bước ra khỏi ghế nói:
- Ðức Kim Thượng tức vị chưa bao lâu, chưa làm gì lỗi đạo, ngài muốn bỏ trưởng lập thứ, chính là muốn tạo phản rồi.
Trác nổi giận mắng lớn:
- Việc nước hiện ở trong tay ta. Ta muốn làm gì thì làm, ai dám không thuận? Ngươi tưởng lưỡi gươm của ta không bén chăng?
Thiệu cũng rút gươm ra khỏi vỏ, nói lớn:
- Gươm ngươi bén thật, nhưng gươm của ta đây cũng không phải là loại sắt cùn.
Hai người toan đối địch trước tiệc.
Ðó chính là:
Ðinh Nguyên trượng nghĩa, thân vừa thác, Viên Thiệu tranh phong, thế cũng nguy.  

 Hết  Hồi Thứ Ba - Tam Quốc Chí   -     La Quán Trung