Hồi Thứ Hai - Tam Quốc Chí - La Quán Trung
Nổi Giận Trương Phi Ðánh Khâm SaiLập Mưu Hà Tiến Trừ Phản Loạn
Ðổng Trác có hiệu là Trọng Dĩnh, người xứ Lũ Tây, vùng Lâm Thao, làm quan
Thái Thú quận Hà Ðông, vốn là một kẻ có tính kiêu ngạo.
Bởi thế, Trương Phi vừa thấy mặt đã ghét, muốn giết đi. Huyền Ðức và Vân
Trường đồng can:
-Dù sao hắn cũng là người của triều đình sai đến, chúng ta không nên giết.
Trương Phi hầm hừ:
-Nếu không giết thằng ấy mà ở lại đây chịu mệnh lệnh của nó thì em không thể
chịu được. Hai anh ở lại, em đi nơi khác
Huyền Ðức nói:
-Anh em ta đã thề đồng sanh tử thì việc đi ở có nhau. Nếu em muốn đi thì
chúng ta cùng đi vậy.
Trương Phi mừng rỡ:
-Nếu thế thì em mới nguôi giận.
Ba anh em Huyền Ðức lại từ bỏ Trác Quận, ngày đêm kéo quân qua Dĩnh Xuyên
theo Chu Tuấn. Chu Tuấn tiếp đãi anh em Huyền Ðức rất hậu, hợp binh làm một,
tiến đánh Trương Bảo.
Bấy giờ, Tào Tháo và Hoàng Phủ Tung cũng đang hợp quân đánh nhau với Trương
Lương ở Khúc Dương, riêng Trương Bảo thì lại địch với Chu Tuấn.
Trương Bảo đem tám, chín vạn quân đóng đồn sau chân núi khí thế rất vững. Chu
Tuấn sai Huyền Ðức là tiên phong, kéo quân đến giao binh. Trương Bảo hay tin sai
Phó Tướng Cao Thăng dẫn ba ngàn quân ra đối địch. Huyền Ðức khiến Trương Phi ra
cự chiến. đánh chưa đầy ba hiệp, Trương Phi đã vung xà mâu đâm Cao Thăng đổ ruột
nhào xuống ngựa chết ngay.
Trương Bảo thấy thế tức giận, lướt tới vung gươm niệm chú, đầu bỏ tóc xõa làm
phép thuật, tức thì sấm chớp nổi lên, trên không bao phủ một vùng hắc khí. Trong
vùng hắc khí ấy lại có vô số binh mã lần lượt rơi xuống.
Trông thấy pháp thuật, binh của Huyền Ðức rối loạn, nên Huyền Ðức vội vã thu
quân.
Về đến dinh, Huyền Ðức vào ra mắt Chu Tuấn và bàn:
-Trương Bảo dùng tà thuật thắng chúng ta, ngày mai chúng ta phải dùng uế vật
phá phép của nó mới được.
Chu Tuấn khen phải, khiến quân sĩ sắm ống thụt cho nhiều, và truyền lệnh giết
dê chó đẻ lấy máu.
Kế đó, Huyền Ðức khiến Quan Công dẫn một ngàn quân mai phục nơi phía chân
núi, đem theo ống thụt, máu dê, máu chó cho nhiều. Tất cả đều dự bị sẵn sàng.
Trời mờ sáng, Huyền Ðức dẫn một đạo binh ra trước trới địch khiêu chiến.
Trương Bảo cười lớn nói:
-Hôm qua chúng đã bại binh, nay lại còn dám đến đây nạp mạng sao?
Liền truyền lệnh ba quân nai nịt chỉnh tề rồi xách giáp ra trước trại.
Trương Bảo vừa dẫn binh ra đã thấy Huyền Ðức múa kiếm mắng nhiếc. Trương Bảo
nổi giận niệm chú, tức thì cát bay đá chạy âm khí mịt mù, trên không trung ngàn
vạn binh mã ào ạt rơi xuống. Huyền Ðức quay ngựa bỏ chạy, Trương Bảo cười lớn
giục ngựa đuổi theo.
Vừa qua khỏi núi, hai đạo binh phục của Quan, Trương nổi lên một tiếng pháo
hiệu, ba quân hăm hở xông ra một lượt, dùng ống thụt nhúng vào máu thụt lên
không, tức thì binh tướng yêu ma của Trương Bảo biến mất hết.
Trương Bảo thấy phép mình bị phá thất kinh, vừa muốn lui binh, thì hai đạo
binh của Quan, Trương đã xông ra chận lại. Phía sau Huyền Ðức xua quân đuổi tới.
Ba ngã đánh dồn lại làm cho đại binh của Trương Bảo tan vỡ, bị chết rất nhiều.
Trương Bảo mở huyết lộ, quất ngựa chạy dài, Huyền Ðức đuổi theo được vài dặm,
lẹ tay rút ra một mũi tên ngắm Trương Bảo bắn theo.
Trương Bảo la lên một tiếng mũi tên cắm vào cánh tay phía tả, không còn cầm
thương được nữa, phải ôm cổ ngựa chạy thẳng vào Dương Thành đóng của cố thủ.
Chu Tuấn thừa thắng, một mặt đốc quân vây chặt bốn cửa thành, một mặt cho
người đi dò la tin tức của Hoàng Phủ Tung.
Nhắc lại từ khi Ðổng Trác thay thế Lư Thực để đấu chiến với Trương Giác, Ðổng
Trác đã thua hơn bảy trận. Tin ấy đến tai triều đình. Vua liền triệu Ðổng Trác
về trách mắng, và sai Hoàng phủ Tung ra thay thế.
Hoàng Phủ Tung đến nơi thì Trương Giác đã chết vì bệnh. Trương Lương thống
lĩnh binh mã thay thế. Trương Lương cự với Hoàng Phủ Tung. Nhưng chẳng bao lâu,
lực lượng của Trương Lương mòn mỏi, bị Hoàng Phủ Tung lập kế chém chết Trương
Lương tại Khúc Dương, rồi đào mả Trương Giác lên, chặt đầu đem về triều dâng
nạp. Triều đình phong cho Hoàng Phủ Tung là Xa Kỵ Tướng quân, trấn nhậm tới Ký
Châu.
Hoàng Phủ Tung lại làm sớ dâng về triều xin cho Lư Thực khỏi tội, và phục hồi
nguyên chức. Tào Tháo cũng có công dẹp giặc Trương Giác nên được phong làm Tể
Tướng Nam.
Chu Tuấn hay được tin ấy, lòng nao nao, vội thối thúc binh sĩ ngày đêm phá
thành Trương Bảo rất gấp. Trong thành quân sĩ đều hết lương thực, thế giặc nguy
cấp, nên tướng giặc là Nghiêm Chách đâm chết Trương Bảo, rồi chặt đầu đem ra
ngoài thành dâng cho Chu Tuấn.
Thế là Chu Tuấn đã dẹp yên được mấy Quận, vội viết thiệp gởi về dâng tấu.
Bấy giờ còn dư đảng của giặc Khăn Vàng lẫn trốn trong núi non, rừng rậm,
thỉnh thoảng kéo ra quấy nhiễu dân lành. Triều đình lại sai Chu Tuấn đem đoàn
quân chiến thắng đi dẹp giặc các nơi hiểm yếu. Chu Tuấn tuân lệnh kéo quân ra
đi.
Nhưng đi được vài ngày thì bỗng thấy trước mặt có một đạo binh kéo tới. Ngỡ
là quân giặc, Chu Tuấn toan cho lệnh đánh, nhưng xem lại tướng đi đầu không phải
là giặc, mà là một trang thanh niên trán rộng, mắt sáng, lưng gấu, vai hùm, oai
phong lẫm liệt.
Người này họ Tôn tên Kiên, quê ở Ngô quận, đất Phú Xuân tự là Vân Ðài, dòng
dõi Tôn Vũ Tử, một nhà quân sự lừng danh.
Năm Tôn Kiên lên mười bảy tuổi, theo cha tới sông Tiền Ðường, thấy hơn mười
tên hải tặc vừa cướp thuyền của một khách buôn, đang chia tiền nhau trên bờ. Tôn
Kiên nói với cha:
- Con xin phép bắt lũ giặc này.
Rồi nhảy lên bờ múa đao hò hét, tay chỉ trỏ Ðông Tây nhưng gọi quân bốn mặt
đến. Giặc tưởng là quan quân đi tuần, vội bỏ hết của cải chạy trốn. Tôn Kiên
đuổi theo chém được một đứa. Do đó, các quận huyện đều biết danh, được tiến cử
làm Hiệu Úy.
Sau đó, lại có tên yêu tặc làm phản ở Cói Kê, xưng là Dương Minh Hoàng Ðế, tụ
tập thảo khấu có hơn vài vạn. Tôn Kiên cùng quan quân Châu Quận phá được giặc
chém đầu Hứa Xương, và đứa con của hắn là Hứa Thiều.
Quan Thứ Sử Tang Mân thấy Tôn Kiên lập được công lớn, liền dâng biểu về triều
bảo tấu. Triều đình phong cho Tôn Kiên làm quan Thừa ở Diêm Tộc, sau đổi sang Hu
Di Thừa, rồi lại làm Hạ Bì Thừa.
Nay thấy giặc Khăn Vàng nổi lên quấy nhiễu, Tôn Kiên lại một lần nữa tụ tập
thiếu niên trong thôn ấp, và thu nạp một số võ sĩ ở miền sông Hoài, lập thành
một đạo quân hơn một ngàn năm trăm người, kéo đi tiếp ứng cho quân triều.
Chu Tuấn mừng rỡ liền thu dụng Tôn Kiên, cùng nhau hiệp binh để truy nã giặc
cướp.
Chẳng bao lâu, các nơi hẻo lánh đã dẹp xong, duy có ba tên giặc lớn, dư đảng
của Truơng Giác, là Triệu Hoằng, Hàn Trung, Tôn Trọng, tụ tập hơn vài vạn quân,
chiếm cứ nơi Uyển Thành, bên trong cướp của giết người, bên ngoài thinh thế là
để trả thù cho ba anh em Trương Giác.
Chu Tuấn liền léo quân đến nơi vây đánh, sai ba anh em Huyền Ðức ngày đêm
công thành.
Trong thành hết lương, Hàn Trung liệu thế không chống nổi, sai người ra xin
hàng. Chu Tuấn không cho.
Huyền Ðức nói:
- Xưa, Hán Cao Tổ sở dĩ được thiên hạ nhờ ở chỗ chiêu dụ kẻ hàng, thu nạp kẻ
thuận. Sao nay ông lại không cho Hàn Trung hàng?
Chu Tuấn đáp:
- Thời ấy khác, thời nay khác. Xưa nhà Tần bạo ngược, Hạng Vũ hung tàn, thiên
hạ đại loạn, người dân không biết ai là thánh chúa, nên Hán Cao Tổ phải tỏ lượng
khoan dung để thu phục thiên hạ. Nay bốn bể, dân gian ai cũng biết nhà Hán là
chủ thiên hạ, chỉ có giặc Khăn Vàng làm phản. Nếu để chúng đắc thế thì làm loạn,
yếu thế thì đầu hàng, là sao giữ được luật pháp? Tha cho chúng đầu hàng tức là
khuyến khích sự phản nghịch đó.
Huyền Ðức đáp:
- Không cho giặc hàng cũng phải. Nhưng hiện nay ta vây kín bốn mặt thành,
giặc bí thế tất phải liều tử chiến. Muôn người một lòng thì khó chống. Hơn nữa
trong thành có hơn ba vạn sanh linh, chẳng lẽ vì chiến sự mà phải chết cả sao?
Chi bằng chúng ta triệt quân ở hai mặt Ðông, Nam chỉ đánh hai mặt Tây, Bắc, để
cho giặc bỏ thành chạy, rồi ta bắt sống là hơn.
Chu Tuấn nghe lời, triệt hết quân hai mặt Ðông, Nam, dồn về đánh hai mặt Tây,
Bắc. Quả nhiên, Hà Trung dẫn quân bỏ chạy. Chu Tuấn liền cùng với anh em Huyền
Ðức thúc quân đuổi theo chém giết, và bắt Hàn Trung. Quân giặc sống sót chạy tán
loạn.
Ðang lúc quân Hàn truy kích, bỗng có Triệu Hoằng, Tôn Trọng dẫn quân đến vây
đánh Chu Tuấn, Chu Tuấn thấy quân giặc đông nên phải tạm lui. Do đó, Triệu Hoằng
thừa thế chiếm lại được Uyển Thành.
Chu Tuấn lui mười dặm hạ trại, rồi ngày hôm sau lại đều binh khiển tướng vây
thành.
Chu Tuấn sai Tôn Kiên đánh phía Nam Uyển Thành, Huyền Ðức đánh cửa Bắc, Chu
Tuấn đánh cửa Tây, chừa cửa Ðông nhử cho giặc chạy.
Tôn Kiên tự mình nhảy lên mặt thành trước tiên, vung đao chém luôn một lúc
hai mươi tên giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy xuống hết. Triệu Hoằng thấy thế liền
cầm giáo dài phi ngựa tới đâm. Tôn Kiên từ mặt thành phi thân xuống, cướp luôn
cây giáo của Triệu Hoằng, rồi xông vào giết giặc.
Bị binh Tôn Kiên hãm thành quá mạnh, Tôn Trọng kéo tàn quân chạy vụt ra cửa
Bắc, bỗng gặp Huyền Ðức kéo quân chận lại. Tôn Trọng không còn lòng dạ nào giao
đấu nữa, vội lách mình qua đám loạn quân chạy trốn. Huyền Ðức giương cung bắn
theo một phát trúng Tôn Trọng nhào xuống ngựa chết tức thì.
Bấy giờ, đại quân của Chu Tuấn thừa thế đánh ập vào chiếm thành, chém hơn một
vạn thủ cấp của giặc. Quân giặc lớp chết lớp đầu hàng. Thế là một giải Nam Dương
hơn mười quận được bình định.
Chu Tuấn truyền lệnh ban sư hồi trào, vào thẳng Ngân Loan Ðiện ra mắt.
Hán Vương truyền dọn tiệc khao thưởng quân sĩ và phong cho Chu Tuấn làm chức
Xa Kỵ Tướng Quân, kiêm lãnh Hà Nam.
Chu Tuấn dâng biểu xin phong chức cho Tôn Kiên và ba anh em Huyền Ðức. Tôn
Kiên vì có thân thế nên được phong chức Tư Mã, lãnh quân đi trấn nhậm liền. Còn
ba anh em Huyền Ðức chờ đợi rất lâu, mà không thấy phong thưởng gì hết, lòng lấy
làm hổ thẹn, chẳng biết vì sao triều đình lại có chuyện bất công như vậy.
Một hôm, ba anh em Huyền Ðức ra đường dạo mát giải khuây, bỗng gặp xe của
Quan Lang là Trương Quân đi ngang qua đó. Huyền Ðức tỏ hết tâm sự mình cho
Trương Quân nghe.
Trương Quân nghe nói cả kinh, lập tức vào triều tâu:
- Xưa những cuộc nổi loạn gây nên thường bởi những kẻ nịnh thần. Sở dĩ giặc
Khăn Vàng tạo phản là vì lũ Thập Thường Thị khi quân, mua quan bán tước, kẻ có
công không được thưởng, kẻ có tội không bị trừng phạt xứng đáng, làm mất lẽ công
bằng. Vậy nay bệ hạ phải chém đầu hết chúng nó và ban bố cho dân chúng biết, thì
lòng dân mới yên ổn.
Bọn Thập Thường Thị liền tâu với vua là Trương Quân khi chúa. Vua khiến kẻ tả
hữu đuổi Trương Quân ra.
Ðược vua tín dùng, bọn Thập Thường Thị lại càng đắc ý bàn với nhau:
- Ðây chắc có kẻ nào có công dẹp giặc Khăn Vàng mà không được trọng thượng
nên oán hận sanh ra chuyện ấy. Bây giờ chúng ta phải tìm chức nào nho nhỏ phong
cho nó, để chúng nó an lòng, rồi sẽ tìm cách sa thải chúng cũng không muộn.
Bởi lẽ đó nên Huyền Ðức được phong làm Huyện Úy tới huyện An Hỉ, thuộc phủ
Trnng San, và phải phó nhiệm liền nội ngày hôm ấy.
Huyền Ðức được lịnh cho tất cả các nghĩa binh của mình được trở về làng, chỉ
còn để lại vài mươi người tâm phúc, rồi cùng Quan, Trương thẳng đến huyện An Hỉ
nhận việc.
Trấn nhậm được bốn tháng, nhân dân nơi đây rất mến phục ba anh em Huyền Ðức
là người có nhiều lương tâm và đạo đức.
Ngày kia, Huyền Ðức bắt được chiếu chỉ của Triều đình phán rằng: "Tất cả
những kẻ có công dẹp giặc Khăn Vàng được phong làm chức Huyện Úy đều phải bị
cách chức."
Huyền Ðức đoán biết mình thế nào cũng bị sa thải, nên đêm ngày thường bàn bạc
với hai em chưa biết vì duyên cớ gì.
Bỗng có Ðốc Bưu di hành đến huyện. Huyền Ðức ra thành nghinh tiếp, vừa thấy
Ðốc Bưu vào đến quán dịch, Ðốc Bưu gọi Huyền Ðức nói:
- Huyện Úy làm người thế nào mà xuất thân đó?
Huyền Ðức nói:
- Tôi vốn là dòng dõi của Trung Sơn Tĩnh Vương vì lúc nọ nghe giặc Khăn Vàng
tạo phản nên ra tụ tập nghĩa quân giúp nước. Từ ở Trác quận tôi đã dẹp lớn nhỏ
hơn ba mươi trận, vì vậy mà được chút ít công lao nên được phong làm chức Huyện
Úy nầy.
Huyền Ðức nói chưa dứt lời thì Ðốc Bưu đã hét lớn:
- Sao ngươi dám xưng là Hoàng Thân, lại còn hư báo công lao của ngươi nữa?
Nay ta vâng lệnh triều đình đến đây để sa thải các tham quan, ô lại, ngươi có
biết không?
Huyền Ðức nghe Ðốc Bưu nói thế, vội vàng lui ra không dám cãi, trở về huyện
bàn vớì các quan lại. Các quan lại bàn tính một hồi rồi mới nói với Huyền Ðức.
- Ðốc Bưu là một đứa bất liêm. Nay nó làm oai như vậy là ý nó muốn nài hối lộ
đó.
Huyền Ðức lắc đầu, nghĩ ngợi giây lát rồi nói:
- Ta lâu nay chẳng hề lấy của ai một đồng, một chữ nào, vậy tiền đâu mà đưa
cho nó. Vả chăng, nếu có tiền ta cũng không thể làm được cái chuyện hèn hạ như
vậy.
Ðốc Bưu thấy Huyền Ðức tỏ vẻ không phục tùng ý muốn của mình, bèn bắt tất cả
các quan lại buộc vu cho Huyện Úy là người hà lạm của dân. Các quan đều khóc lóc
xin cho Huyền Ðức.
Lúc ấy, Trương Phi cũng vừa đi đến, thấy có năm sáu ông già ngồi buồn trước
quán dịnh khóc lóc. Phi liền kêu lại hỏi thăm duyên cớ, thì các ông già kia nói:
- Ðốc Bưu bắt ép bọn tôi khai cho Lưu Công là kẻ hà lạm, chúng tôi vì cảm mến
Lưu công nên đã xin ba bốn phen mà chưa được.
Nhân lúc Trương Phi vừa uống xong mấy chén rượu để giải buồn, nghe nói như
vậy, lòng nổi nóng, liền nhảy vội xuống ngựa xông vào quán dịch, chạy thẳng đến
công đường, thấy Ðốc Bưu đang ngồi vểnh chân trên cao thét mắng các Huyện lại bị
trói để nằm dưới đất.
Trương Phi bước đến thét lớn:
- Thằng khốn nạn kia! Ngươi biết ta là ai mà ngươi dám đến đây làm phách như
vậy?
Ðốc Bưu chưa kịp nói nửa lời thì liền bị Trương Phi nhảy tới đá một đá vào
quai hàm. Ðốc Bưu đau quá, la lên một tiếng, nhào xuống đất.
Chưa chịu thôi, Trương Phi nắm râu Ðốc Bưu kéo đi xềnh xệch, dẫn thẳng đến
huyện nha, trói vào cột cờ, rồi bẻ roi đánh Ðốc Bưu một hồi nữa, đến gãy hết mấy
chục cành roi liễu. Ðốc Bưu chẳng biết làm sao, đau quá buộc lòng phải năn nỉ,
nhưng Trương Phi không tha.
Lúc ấy Huyền Ðức đang ngồi một mình buồn bực, bỗng nghe có tiếng huyên náo
liền hỏi kẻ tả hữu. Và bọn này thưa:
- Trương tướng quân đang trói một người trước huyện nha mà đánh dữ lắm!
Huyền Ðức vội vã bước ra xem thì thấy người bị đánh là Ðốc Bưu, ông ta thất
kinh, chạy lại nắm tay Trương Phi kéo lại. Trương Phi nói với Huyền Ðức:
- Anh đừng cản ngăn. Thằng này là một đứa ăn cướp, không đánh cho chết để làm
gì?
Thấy Huyền Ðức tới, Ðốc Bưu năn nỉ:
- Lưu công ơi! Xin cứu dùm tánh mớng tôi với.
Huyền Ðức vốn lòng nhân từ thấy vậy không cho Trương Phi đánh nữa. Quan Công
đang đứng một bên, bước đến nói:
- Ðại ca đã lập được công lao rất lớn. Với công án ấy lẽ ra đại ca phải được
trọng thưởng, thế mà đại ca chỉ được chức Huyện Úy nhỏ mọn nầy. đã vậy, Ðốc Bưu
lại còn đến đây đòi của hối lộ, làm nhục chúng ta nữa. Em nghĩ, không phải là
chỗ để cho chim phụng hoàng nghỉ cánh, chỉ bằng giết quách Ðốc Bưu cho đã giận
rồi trả ấn, trở về làng tìm cơ lập nghiệp là hơn.
Huyền Ðức liền lấy ấn treo nơi cổ Ðốc Bưu, và nói:
- Cứ như cái tội nhũng lạm của dân cũng đủ cho chúng ta giết ngươi cho an
lòng dân chúng, nhưng vì từ tâm, ta dung thứ cho ngươi đó. Ngươi hãy đem ấn này
về giao nạp cho triều đình, và ăn năn hối cãi để khỏi ân hận sau nầy. Chúng ta
đi đây.
Khi Ðốc Bưu được thả thì ba anh em Huyền Ðức đi hết. Ðốc Bưu quá tức giận,
lén đi cáo với quan Thái Thú quận Dĩnh Châu, vu cáo cho anh em Huyền Ðức mưu
phản. Quan Thái thú Dĩnh Châu ra lệnh khắp các huyện tầm nã ba anh em Huyền Ðức.
Bấy giờ, ba anh em Huyền Ðức dắt nhau qua Ðới Châu ở với Lưu Khôi. Lưu Khôi
thấy Huyền Ðức là dòng dõi nhà Hán nên có cảm tình giấu nuôi trong nhà.
Tới triều, bọn Thập Thường Thị lúc nầy lại lộng quuyền thái quá. Chúng dùng
đủ cách tham ô. Những người nào phục tùng theo chúng thì được chức quyền, bằng
trái lại thì đều bị chúng làm hại. Chúng lại sai người đi khắp quận huyện bắt
những người nào có công dẹp giặc Khăn Vàng, được phong chức tước đều phải nạp lễ
vật cho chúng, nếu không chúng tâu với vua sa thải ngay.
Bởi lẽ đó, nên nhiều người liêm chính đã bỏ chức về làng làm dân, không chịu
mang tiếng nhục. Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn là người có công lớn trong việc dẹp
giặc Khăn Vàng, cũng bị bọn Thập Thường thị tâu với vua bãi chức.
Vua lại phong cho nhóm nịnh thần như Triệu Trung làm chức Xa Kỵ Tướng quân,
và hết thảy mười ba người trong bọn Trương Nhượng đều lãnh chức Liệt Hầu. Từ đó,
việc triều chính càng ngày càng hư nát, triều thần lộn xộn, dân tình ly tán.
Tới quận Trường Xa có tên Khu Tỉnh nổi loạn. - Ngư Dương có bè lũ Trương Cử,
Trương Thuần làm phản. Trương Cử xưng Thiên tử, Trương Thuần xưng Ðại Tướng
Quân. Biểu văn hàng ngày cấp báo về triều như cánh bướm, nhưng bọn Thập Thường
Thị nhẹm hết, không cho vua hay.
Một hôm vua ngự ở hậu viên, đang yến ẩm với bọn Thập Thường Thị bỗng có quan
Giám Nghị Ðại Phu Lưu Ðào đi thẳng vào, quỳ trước mặt vua mà khóc. Vua hỏi duyên
cớ, Lưu Ðào tâu:
- Vận mạng thiên hạ có thể nguy biến trong một sớm một chiều, thế mà bệ hạ cứ
ngồi yến ẩm với bọn yểm hoạn này ư?
Vua nói:
- Nước nhà đang lúc thái bình thanh trị, sao khanh lại nói là nguy biến?
Lưu ựào tâu:
- Bốn phương giặc giã nổi lên như ong, hiện đang xâm chiếm từ Châu nọ đến
Quận kia! Cái tai vạ này cũng chỉ vì mười tên Thường Thị buôn quan bán chức, hại
dân mà ra! Chúng dối vua loạn phép, cho nên những người ngay thẳng đều xa lánh
triều đình. Cái nguy biến trước mắt, mong bệ hạ suy xét.
Mười tên Thường Thị nghe vậy liền quỳ xuống trước mặt vua, trật mũ ra, tâu:
- Quan đại thần đã không dung thì lũ hạ thần này phải chết. Xin bệ hạ mở lòng
hiếu sinh cho chúng tôi được trở về làng cày ruộng, làm vườn, nguyện đem hết tài
trí giúp nước nhà nuôi quân phá giặc.
Tâu xong, tât cả mười tên Thường thị đều khóc rống lên rất thảm thiết, như
sắp bị đem đi hành hình vậy.
Vua giận mắng Lưu Ðào:
- Nhà ngươi cũng có đầy tớ,
sao lại không dung kẻ hầu, người hạ của trẫm.
Nói xong vua lại truyền võ sĩ bắt Lưu Ðào đem chém.
Lưu Ðào kêu lớn:
- Ðầu thần rơi không đáng tiết, chỉ tiếc cho cơ nghiệp nhà Hán gây dựng trên
bốn trăm năm, nay phút chốc phải tan tành.
Võ sĩ trói Lưu Ðào đem ra ngoài, sắp sửa hành hình, thì bỗng có một vị đại
thần chạy đến quát lớn:
- Không được hạ thủ. để ta vào can vua đã!
Võ sĩ thấy đó là quan Tư Ðồ Trần Ðam, nên chưa dám khai đao, còn chờ lệnh.
Trần Ðam đi thẳng vào hỏi vua:
- Lưu Giám nghị có tội gì mà bệ hạ truyền đem chém?
Vua Linh Ðế nói:
- Tội sàm báng cận thần và khi quân.
Trần Ðam nói:
- Hầu hết dân chúng trong thiên hạ ai cũng muốn ăn sống mười đứa Thường Thị,
sao bệ hạ lại kính nể chúng như cha mẹ? Không một tấc công lao mà sao đứa nào
cũng được phong tước Hầu. Ðã vậy, bọn Phong Tư là kẻ tư thông với giặc Khăn
Vàng, toan làm nội phản, thế mà nay bệ hạ còn chưa tỉnh ngộ, mến chuộng bọn hoạn
quan như thế sao?
Linh Ðế nói:
- Phong Tư làm phản, việc ấy còn mù mờ chưa rõ hư thật. Còn như trong mười
người Thường Thị há lại không có kẻ nào là trung thần sao?
Trần Ðam dập đầu dưới đất, nhất định can vua cho kỳ được. Vua nổi giận truyền
võ sĩ trói lại đem ra hạ ngục cùng với Lưu Ðào, chờ xét xử sau.
Ngay đêm đó, bọn Thường Thị kéo nhau vào ngục giết chết hai vị trung thần
này, rồi chúng lại giả chiếu vua phong Tôn Kiên làm Thái Thú Trường Sa, sai đi
đánh Khu Tỉnh, bình định phiến loạn.
Chưa đầy ba mươi ngày, Tôn Kiên đã dẹp yên, viết thiệp về triều cáo báo. Thế
là vùng Giang Hạ được yên, Tôn Kiên được phong làm Ý Trình Hầu, Lưu Ngu thì được
phong làm U Châu Mục, lãnh quân đến Ngư Dương đánh Trương Thuần, Trương Cử.
Bấy giờ Lưu Khôi ở Ðới Châu viết thơ tiến cử và bảo ba anh em Huyền Ðức đến
ra mắt Lưu Ngu. Lưu Ngu rất mừng, cử anh em Huyền Ðức làm Ðô Úy, dẫn binh vào
thẳng sào huyệt của giặc đánh phá kịch liệt hai ba ngày liền.
Trương Thuần vốn là kẻ hung bạo hay chém giết, nên lòng quân sinh biến. Một
tên đầu mục núp trong trướng lừa giết chết Trương Thuần rồi đem đầu ra ngoài nạp
cho Huyền Ðức. Trương Cử thấy tình thế nguy nan, nên tự tử chết luôn. Quân sĩ
kéo ra đầu hàng hết.
Ngư Dương bình đinh, Lưu Ngu dâng biểu tâu rõ công lớn của Lưu Bị. Triều đình
xá cho Huyền Ðức cái tội đánh Ðốc Bưu và phong chức Hạ Mật Thừa, rồi thăng Cao
Ðường Úy.
Sau đó, Công Tôn Toản lại dâng biểu trần thuật công lao của Huyền Ðức khi dẹp
giặc Khăn Vàng trước kia mà tiến cử làm Liệt Bộ Tư Mã, lãnh chức Bình Nguyên
Huyện Lệnh. Triều đình y tấu, Huyền Ðức tới chấn nhậm Bình Nguyên, có đủ lương
tiền, quân mã, ba anh em mới được thanh nhàn. Còn Lưu Ngu có công dẹp giặc được
phong làm Thái Úy.
Năm Trung Bình thứ sáu, mùa hạ, tháng tư, vua Linh Ðế đau nặng, bèn triều Ðại
Tướng Hà Tiến vào cung để thương nghị.
Hà Tiến vốn con nhà hàng heo, nhân cơ hội em gái vào cung làm quý nhân, nhờ
sanh được hoàng tử Biện, nên mới được phong làm Hoàng Hậu. Hà Tiến cũng nhờ đó
mà nhậm được trọng chức.
Vua lại lấy Vương Mỹ Nhân sanh đặng Hoàng tử Hiệp, vì thế Hà thái hậu ghen
ghét dùng thuốc độc giết Vương Mỹ Nhân đi.
Ðổng Thái Hậu liền đem Hoàng tử Hiệp về cung riêng của mình để nuôi dưỡng.
Ðổng Thái Hậu là mẹ của vua Linh Ðế, thường ngày khuyên vua lập Hoàng tử Hiệp
làm thái tử. Vua cũng bằng lòng, ngặt vì đau nặng nên chưa tính đến việc ấy
được. Trung Thường Nghị là Kiển Thạc biết việc ấy bèn vào tâu với vua:
- Nếu bệ hạ muốn lập Hoàng tử Hiệp lên ngôi thì bệ hạ phải giết Hà Tiến thì
sau này mới khỏi sanh hậu hoạn.
Vua suy nghĩ rồi cho đòi Hà Tiến vào cung. Khi Hà Tiến vừa vào tới cửa cung
thì gặp quan Tư Mã là Phan Ân đón lại nói:
- Ông chớ vào cung, Kiển Thạc âm mưu muốn giết ông đấy.
Hà Tiến nghe nói thất kinh vội vã bước ra về thẳng tư dinh, lập tức mời các
quan đại thần đến bàn bạc công việc.
Ông nói:
- Nay bọn hoạn quan ỷ thế, làm nhiều đều sàm nịnh, nếu chúng ta không tìm
cách trừ hết bọn nó, thì chúng ta ắt không khỏi mang hậu họa.
Hà Tiến vừa nói dứt lời, thì bỗng có một người bước đến, thưa:
- Quyền thế của hoạn quan rất mạnh, khởi từ lúc vua còn nhỏ, chi nhánh trong
triều rất nhiều, giết làm sao hết được, phỏng như chúng ta không làm nổi để lộ
cơ mưu ắt không khỏi bị diệt tộc.
Hà Tiến quay mặt sang nhìn, thì thấy người ấy là Tào Tháo, ông nổi giận nạt
lớn:
- Ngươi là người tiểu bối, biết gì mà dám bàn đến.
Trong lúc mọi người còn đang bàn bạc thì Phan An chạy đến nói:
- Vua đã băng hà rồi, nhưng Kiển Thạc lại thương nghị với bọn Thập Thường Thị
không cho phát lộ ra ngoài. Chúng nó muốn triệu Hà Quốc Cựu vào cung để diệt trừ
hậu họa, hầu lập Hoàng tử Hiệp lên làm vua.
Phan An nói vừa dứt lời thì quả có chiếu triệu đòi Hà Tiến vào cung.
Tào Tháo thấy vậy bước ra nói:
- Hôm nay hãy lo tôn tân quân trước đã, rồi sẽ tính kế trừ lũ nịnh thần sau.
Hà Tiến nói:
- Như vậy ai vì ta, vì xã tắc mà lo việc chánh quân và việc trừ lũ nịnh hay
không?
Bỗng có người từ góc trái bước ra, thưa:
- Xin cho tôi lãnh năm ngàn quân đến tới cung phá cửa lập tân quân và bắt tất
cả bọn Thập Thường Thị mà giết cho rồi.
Hà Tiến xem lại người nói đó là Tư Ðồ Viên Thiệu, tự là Bôn Sồ, hiện đang giữ
chức Tư Ðồ Huyện Úy.
Hà Tiến mừng rỡ, vội vã điểm năm ngàn quân giao cho Viên Thiệu.
Viên Thiệu nai nịt hẳn hòi dẫn năm ngàn quân Ngự Lâm kéo thẳng vào cung. Còn
Hà Tiến thì cùng với các quan đại thần như: Hà Ngung, Tuân Nhu, Trịnh Thái v.v..
cộng cả thảy hơn ba mươi người, đồng kéo thẳng vào trào, lập Thái tử Biện lên
ngôi Hoàng đế.
Viên Thiệu dẫn quân đi thẳng vào cung tìm bắt Kiển Thạc, và nã tróc bọn Thập
Thường Thị.
Kiển Thạc hay tin khiếp vía, vội vã nhảy ra ngự huê viên mà trốn, nhưng bất
thời lại gặp Trung Thường Thị là Quách Thắng thấy được đâm một kiếm chết tốt.
Bọn Trương Nhượng biết nguy đã đến nơi liền chạy vào cung van cầu Hà Thái
Hậu:
- Kẻ lập mưu hãm lại tướng công là Kiển Thạc, nay Kiển Thạc đã chết rồi, còn
chúng tôi là kẻ vô can, mong Thái hậu mở lòng nhân che chở cho.
Hà Thái hậu nói:
- Các người đừng sợ nữa, để ta bảo hộ cho.
Dứt lời, Hà Thái hậu liền triều Hà Tiến đến nói:
- Anh em ta lúc trước hàn vi, nếu không nhờ bọn Trương Nhượng giúp đỡ một tay
thì đâu có quyền cao lộc cả như ngày hôm nay. Vậy anh nên nghĩ lại vị tình mà
dung tha bọn Trương Nhượng là phải hơn.
Hà Tiến ngẫm nghĩ giây lâu rồi trở ra nói với các quan:
- Kiển Thạc là một tên bạo phản, nay hắn đã đền tội rồi, còn các người khác
ta có thể dung tha được, chớ nên sát hại chúng làm chi.
Viên Thiệu nói:
- Ðốn cây mà không nhổ tận rễ thì làm sao khỏi bị nứt chồi.
Hà Tiên nói:
- Ý ta đã cương quyết như vậy, ngươi chớ có nhiều lời vô ích.
Các quan nghe Hà Tiến nói thế, ai nấy đều hậm hực lui về dinh.
Sáng hôm sau Hà Thái hậu giáng chỉ phong Hà Tiến làm Tham Lục Thượng Thơ, còn
các quần thần cứ đẳng gia phong một trật.
Công việc làm của Hà Tiến khiến cho Ðổng Thái Hậu căm tức, bèn kêu bọn Trương
Nhượng vào cung nói:
- Em gái hắn trước kia chính nhờ ta tiến cử nó mới được vua yêu dùng đến ngày
hôm nay. Hôm nay con trai của nó được nối ngôi Hoàng đế, thế lực trong ngoài của
nó quá mạnh, như vậy bọn chúng ta có ngày e phải lâm hại.
Trương Nhượng nghe Ðổng Thái Hậu than thở, liền bày mưu:
- Bây giờ Nương Nương làm sao chưởng chấp uy quyền, Cựu Ðổng Trọng và phong
thêm chức cho chúng tôi thì một ngày kia chúng tôi có cơ hội cứu nguy tình thế.
Ðổng Thái Hậu rất mừng khen Trương Nhượng có mưu cao.
Ngày thứ Ðổng Thái Hậu thiết trào rồi giáng chỉ phong cho Hoàng tử Hiệp làm
Trần Lưu vương, Ðổng Trọng làm Biên Kỵ tướng quân, bọn Trương Nhượng đều được
gia thêm chức và cùng dự việc trào chính.
Hà Thái Hậu thấy Ðổng Thái Hậu lộng quyền trong lòng sanh nghi, bèn thiết yến
diện trong cung rồi thỉnh Ðổng Thái Hậu phó yến.
Khi dự tiệc nửa chừng, Hà Thái Hậu đứng dậy tay bưng chén rượu nói với Ðổng
Thái Hậu:
- Chúng ta là phận đàn bà mà dự đến việc trào chính chẳng khác nào chúng ta
đã đi ngoài phận sự. Những gương xưa còn rành, Lữ Hậu cũng vì nắm trọn quyền mà
cả dòng họ bị tru lục, và còn biết bao nhiêu việc tai hại khác. Chúng ta hãy noi
gương đó mà tránh đi những cái dữ để khỏi ân hận ngày sau
Ðổng Thái Hậu giận dữ mắng lớn:
- Mi ỷ thế lực của con mi làm vua mi dám loạn ngôn như vậy. Tội ngươi tra
thuốc giết Vương mỹ nhân là một cựu thù ta chưa nói đến đó thôi.
Hà Thái Hậu thấy Ðổng Thái Hậu nói quá lời, lòng nổi giận cũng mắng lại:
- Ta lấy lời hơn lẽ thiệt để bàn bạc, sao mi lại dám xúc phạm đến danh dự của
ta?
Hai bên không ai chịu nhịn ai, cứ mắng đùa với nhau không kể gì đến danh dự.
Bọn Trương Nhượng hay tin, vội chạy đến can ngăn hết lời Ðổng Thái Hậu mới chịu
về cung.
Hà Thái Hậu đêm ấy không ngủ được, bèn gọi Hà Tiến đến tỏ bày việc ấy.
Rớng sáng Hà Tiến một mặt nhóm họp đình thần buộc Ðổng Thái Hậu phải rời khỏi
cung ra ở phủ Hà Giang, mặt khác vây nhà Biên Kỵ tướng quân Ðổng Trọng. Ðổng
Trọng liệu thế khó thoát được liền cầm đao tự vận nơi hậu dinh.
Bọn Trương Nhượng thất vía không biết chổ nào nương tựa vì thế lực của Ðổng
Thái Hậu đã tiêu tan trong phút chốc, bèn đem tiền bạc vàng lụa đến lo lót cho
người em Hà Tiến là Hà Miêu nói với Hà Thái Hậu để được toàn mạng. Nhờ đó mà bọn
Thập Thường Thị lại vẫn được dung dưỡng và giữ chức quyền như cũ.
Việc triều chính đã tạm yên, Hà Tiến còn sợ những hậu họa nên sai người đến
Hà Giang tìm cách đánh thuốc độc Ðổng Thái Hậu. Cách mấy ngày sau có tin Ðổng
Thái Hậu bị ngộ độc mà chết, Hà Tiến bèn dạy đem xác Ðổng Thái Hậu về chôn nơi
Vương Lăng.
Công việc ấy thấu tai đến lũ nịnh thần nên nhiều tiếng đồn làm cho Viên Thiệu
hay được. Viên Thiệu liền vào nói lại với Hà Tiến:
- Tôi có nghe tiếng đồn do bọn Thập Thường Thị rao ra rằng tướng công đã giết
Ðổng Thái Hậu. Nếu để chúng gièm pha như vậy e không lợi, chi bằng nhân cơ hội
nầy mà giết chết bọn chúng đi thì mới khởi sợ sanh ra hậu hoạn.
Hà Tiến nghe được việc ấy, ngày đêm còn đang suy đi tính lại để tìm cách diệt
trừ bọn Thập Thường Thị, thì việc này bọn Trương Nhượng hay được. Nhưng thế yếu
không biết làm sao, bọn Trương Nhượng lại đem vàng bạc thiệt nhiều đến lo lót
cho Hà Miêu một lần nữa để vào nói Hà Thái Hậu.
Hà Miêu vào cung tâu với Hà Thái Hậu:
- Bọn Thập Thường Thị lâu nay rất có công với triều chính, nay vì vô cớ tướng
công Hà Tiến muốn diệt trừ họ e sanh ra rối loạn triều thần.
Hà Thái Hậu nghe nói khiến quân triệu Hà Tiến vào cung bảo:
- Tiên Ðế mới băng hà; việc triều chính còn nhiều rối lắm, không nên có ý làm
hới các cựu thần mà sanh ra rối loạn.
Hà Tiến là kẻ không cương quyết nên nghe Hà Thái Hậu nói như vậy cũng phải
vâng lệnh lui ra thuật lại ý kiến của Hà Thái Hậu cho Viên Thiệu nghe. Viên
Thiệu nói:
-Lực lượng chúng ta bây giờ đâu có sợ bọn chúng. Nếu tướng công có nghi ngờ
triệu tập các anh hùng hào kiệt trấn giữ khắp châu, quận rồi trở về cung mà giết
sạch bọn chúng nó đi thì có lo gì bọn chúng phản ứng.
Hà Tiến nói:
- Kế ấy rất hay.
Rồi, ông tính phát các hịch văn triệu hồi các trấn về hợp sức.
Xảy có người bước tới cản ngăn:
- Theo ý ngu hạ thì việc ấy tướng công không nên làm, và người xưa có câu:
"Che mắt mà bắt chim én". Việc nhỏ mọn như thế mà còn phải dùng đến mưu chước
huống chi việc quốc gia đại sự. Nay Tướng công chấp chưởng binh quyền, muốn làm
gì chẳng được mà Tướng Công phải tính như vậy. Hơn nữa anh hùng khắp nơi, mỗi
người có đều có chí hướng riêng, phỏng như Tướng Công triệu họ về mà có một số
người không tuân lệnh có phải Tướng Công cầm giáo mà lại trở cán cho thiên hạ
không?
Hà Tiến nghe nói cười lớn và nói:
- Ngươi là kẻ hủ nho, kiến thức bao nhiêu mà dám cùng bàn đến đại sự.
Hà Tiến nói vừa dứt lời lại có một kẻ vỗ tay cười to, nói:
- Việc nhỏ như vậy mà cần chi phải bàn đi bàn lại cho thêm mệt.
Mọi người nghe nói quay lại thì thấy người ấy là Tào Tháo.
Hết Hồi Thứ Hai - Tam Quốc Chí - La Quán Trung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét