Hồi 120 - Tam Quốc Chí - La Quán Trung
Bình Ðông Ngô, Ðổ Dự thành công
Hết phân cách tới hồi thống
nhứt
Ngô chúa từ khi nghe Thục mất thì lo sợ phát bịnh, không dậy nổi , sắp qua
đời thì kêu Thừa Tướng là Bộc Dương Hưng vào, chỉ thái tử Tôn Linh rồi mất
.
Bộc Dương Hưng cùng các quan thương nghị :
- Thái tử còn nhỏ quá, vậy nên mời Ô Trình Hầu Tôn Hạo về chắp chánh mới
xong. Thái hậu cũng đồng ý.
Tôn Hạo lên ngôi hoàng đế, phong Tôn Linh làm Dư
Chương vương, gia phong Ðinh Phụng làm Ðại Tư Mã. Từ khi lên ngôi thì Tôn Hạo
cũng như hậu chúa tin dùng bọn hoạn quan Sầm Hôn.
Bộc Dương Hưng và Trương Bố chỉ vì can gián mà bị xử trảm.
Lại tin dùng thầy bói, gọi một thầy bói tên Thượng Quan về giữa triều mà cúng
bói.
Thầy bói đoán :
- Sang năm Canh Tý Bệ Hạ sẽ diệt Tôn mà vào Lạc Dương .
Tôn Hao mừng lắm,
lại càng hoang dâm xa xỉ.
Huệ Kiểu can gián :
- Xin Bệ Hạ lo tu nhân tích đức cho bá tánh nhờ, hơi đâu mà nghe bói toán
những chuyện nước ngoài làm gì .
Tôn Hạo giận nói :
- Ta không nghĩ tình cựu thần thì chém ngươi rồi . Nói xong, hô quân đuổi Huệ
Kiểu ra.
Huệ Kiểu liền trốn về quê.
Rồi Tôn Hạo chỉ thị Lục Kháng lo việc
đánh Tương Dương.
Tấn chúa hay tin bèn thương nghị với quần thần.
Giả Sung
tâu :
- Ngô chúa hoang dâm vô độ, mất nước đến nơi. Xin bệ hạ cứ cho Dương Hựu ra
ngăn chống, rồi chờ ít lâu bên Ngô sanh biến thì chỉ đánh một trận là thành công
.
Dương Hựu là tướng có tài đức thương dân, lo cho quân sĩ nên ai cũng khâm
phục. Ngày nghe tin quân Ngô đến, Dương Hựu dặn chư tướng :
- Lục Kháng có tài, nên đề phòng cẩn thận rồi sẽ liệu sau .
Một bửa, Lục
Kháng đi săn, bên này Dương Hựu cũng đi săn, và cấm quân sĩ không được săn qua
địa phận bên Ngô.
Lục Kháng cũng khiến quân lượm những thú nào mà binh Tấn
bắn trúng thì đem trả hết về bên Dương Hựu.
Lục Kháng lại tặng riêng Dương Hựu một bình rượu ngon.
Bửa nọ, hay tin Lục
Kháng bị bịnh Dương Hựu có thuốc hay liền gởi tặng Lục Kháng.
Lục Kháng tin mà uống, sau lại viết biểu về trình Ngô chúa :
- Bên Tấn đang thịnh, lúc này chưa nên đánh. Riêng kính xin bệ hạ tu sửa
mình để kịp lo đại sự sau này .
Tôn Hạo cả giận, truất quyền Lục Kháng và cho Tôn Di ra thay thế.
Kể từ
đó, Ngô chúa ngày càng thêm bạo ngược, ai can gián cũng đều bị hại hết.
Dương
Hựu hay được tin trên liền tâu lên Tấn chúa :
- Nay là lúc thừa cơ thuận tiện để đánh Ngô. Nhưng Tấn chúa nghe lời Giả
Sung, bảo Dương Hựu hãy chờ đã.
Dương Hựu buồn bực , dâng biểu xin từ
chức.
Tấn Chúa ngạc nhiên bảo :
- Trẫm còn tính nhờ khanh nhiều, sao lại sớm trở về làng như vậy ?
Dương
Hựu tâu :
- Tôi tuổi già sức yếu, nay xin tiến cử Hữu Tướng Quân Ðổ Dự có tài giúp
nước. Thiển nghĩ thiên hạ mười phần, Bệ Hạ đã gồm thâu được chín phần , nay
triều Ngô suy bại, chính là lúc nên cất quân, chớ để lỡ cơ hội .
Tấn Chúa y
theo, phong Ðỗ Dự làm Trấn Nam Ðại Tướng Quân.
Ðỗ Dự lãnh chiếu rồi xuất
quân, nhắm Tương Dương tiến phát.
Bên Ngô thì Ðinh Phụng và Lục Kháng đã mất
cả, Ngô Chúa vui chơi cùng bọn Hoạn quan, ngày đêm say sưa, dĩ chí bày ra các
cách trị tội ác độc như khoét mắt, lột da. . . làm cho nhân dân đồ thán.
Lúc đó Ðổ Dự tuân lịnh Tấn Vương điều động mười vạn binh mã Ðại Tướng Quân Tư
Mã Du ra ngã Từ Trung, Chinh Ðông tướng quân Vương Hồn ra ngã Hoành Giang. Kiến
Oai tướng quân Vương Nhung ra ngã Võ Xương, Bình Nam Tướng quân Hồ Phẩm ra ngã
Hạ Khẩu , tất cả đều thuộc quyền điều động Trấn Nam đại Tướng Quân kiêm Ðại Ðô
Ðốc Ðổ Dự.
Hay tin trên, Tôn Hạo cả kinh, vời quần thần tới thương nghị, sau
đó cử Trương Ðể cầm binh đi kháng cự. Rồi lui vào cung vô cùng buồn bã.
Sầm
Hôn liền hiến kế :
- Giang Nam ta nhiều sắt, vậy nên làm dùi sắt mà cắm dưới nước, lại rèn nhiều
dây xích sắt đeo nhiều khoen nặng hàng trăm cân mà dăng ngay sông, tất ngăn được
chiến thuyền của Tấn Vương .
Tôn Hạo liền y kế mà làm.
Nói về Ðỗ Dự chỉ dùng thuyền nhẹ qua sông Trường
Giang mà lấy được Lạc Dương, lại dùng binh lấy được Giang Lăng, tướng Ngô giữ ải
Võ Xương sợ quá xin đầu hàng, sau đó Ðổ Dự bèn tiến binh lấy Kiến Nghiệp.
Nói
về thủy quân của Tấn do Long Nhưỡng tướng quân Vương Tuấn thống lãnh đang lục
tục tiến đến thì có quân do thám về báo bên Ngô dùng dây lòi tói bằng sắt và dùi
nhọn cắm ở lòng sông để ngăn cản.
Vương Tuấn cả cười rồi sai kết mấy vạn chiếc bè lớn lùa cho trôi xuống, bao
nhiêu dùi cắm dưới nước bị lôi đi mất hết. Trên bè lại trang bị đuốc lớn thấm
dầu, cháy mãi lòi tói cũng bị đứt hết.
Thế là thủy quân Tấn thẳng giòng mà tiến lên.
Lúc đó Thừa Tướng Ðông Ngô
là Trương Ðể thấy các đạo bộ binh đã thua chạy, quân thủy cũng không chống cự
nổi thì khóc ròng lên rồi cùng hai tướng là Trầm Huỳnh và Gia Cát Nghiền liệu tử
chiến một trận cuối cùng.
Rút cuộc cả ba đều bị vây hãm và đều bị tử trận.
Lập tức Ðổ Dự lại cho
tiến quân, quân Tấn tới đâu, binh Ngô đầu tới đó .
Ngô Chúa được tin thất kinh hỏi quần thần :
- Tại sao binh ta không chịu đánh ?
Quân thần tâu :
- Ðó là cái họa Bệ Hạ nghe lời bọn Sầm Hôn mà sanh ra . Nay muốn cho Tướng sĩ
tiếp tục chiến đấu chống địch thì Bệ Hạ hãy giết Sầm Hôn trước đã .
Ngô chúa
không chịu, quần thần tức lắm liền ào ạt xông vào cung bắt Sầm Hôn đem ra phanh
thây, mỗi người lại lắt một miệng thịt mà ăn cho hả giận.
Sau đó quần thần
đồng thanh xin ra đánh, Tôn Hạo bèn cho Ðào Thao thống lãnh các đạo Ngự Lâm
Quân, Trương Tượng dẫn các đạo thủy binh xông ra đánh quân Tấn.
Tuy nhiên
quân sĩ đã nản lòng hết, mặc cho các tướng đốc thúc, bỏ chạy tứ tán.
Khi Vương Tuấn đến thì Trương Tượng chỉ còn vài mươi quân sĩ đành phải đầu
hàng.
Vương Tuấn sai Trương Tượng đi chiêu dụ Thạch Ðầu Thành, nơi này cũng
đầu hàng nốt.
Ngô chúa cả sợ toan tự vận thì có Hồ Xung cản lại mà rằng
:
- Sao chúa công không làm theo Lưu Thiện ?
Tôn Hạo liền dắt hết bá quan
ra xin đầu hàng Vương Tuấn.
Ðổ Dự cũng vừa tiến quân đến , thấy vậy cả mừng,
bèn cùng Vương Tuấn dâng biểu lên Tấn chúa rồi ra lịnh ban sư về nước.
Tới
nơi Tôn Hạo liền đến trước điện cúi đầu ra mắt Tấn vương.
Tấn vương cho ngồi
bên và tiếp đãi tử tế .
Sau đó Tấn vương phong cho Tôn Hạo làm Qui Mạng Hầu, con cháu Tôn Hạo và các
quan đi theo cũng đều được phong chức tước.
Lưu Thiện, Tào Hoán và Tôn Hạo
đều sống an bình cho tới chết .
Ngụy, Thục, Ngô từ nay thống nhất dưới quyền cai trị của Tấn đế Tư Mã
Viêm.
Họp tan, tan họp, âu đó cũng là lẽ nhiệm mầu của Trời đất vậy .
Tam Quốc Chí - La Quán Trung Download
Hết
| | |
|
Lưu Bị tự là Huyền Đức, người huyện Trác (nay là huyện Trác, tỉnh Hà Bắc).Ông là con cháu đời sau của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con Hán Cảnh đế. Đến đời Lưu Bị, nghiệp nhà sa sút, đành dựa vào nghề đan giày, bện chiếu mà sống. Ông đọc sách mà không chịu dụng công, lại thích chơi cưỡi ngựa, thích nghe âm nhạc, nghiên cứu cách ăn mặc. Ông thích kết giao với người hào kiệt, cùng Quan Vũ, Trương Phi đối xử với nhau rất tốt. Ông nhờ tham gia trấn áp khởi nghĩa quân Khăn vàng mà nổi lên, từng theo Công Tôn Toản tham gia quân Quan Đông đánh Đổng Trác.
Triệu Vân (Zhao Yun) (168-229), tự là Tử Long , người vùng Thường Sơn, là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông được phong chức Hổ uy Tướng quân và đứng thứ ba trong Ngũ Hổ Tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.
Trương Phi ( sinh chưa rõ - mất 221) là một danh tướng của nước Thục thời Tam Quốc. Ông thường được biết đến là một viên tướng nóng nảy, đối xử tốt với cấp trên nhưng không đối xử tốt với cấp dưới.
Trương Phi bị tuỳ tướng của mình là Trương Đạt và Phạm Cương sát hại khi đang chuẩn bị cuộc tấn công Đông Ngô để báo thù cho người anh kết nghĩa của mình là Quan Vũ. Trương Đạt và Phạm Cương sau đó trốn sang Đông Ngô.
Quan Vũ (,162? - 219), cũng được gọi là Quan Công , tự là Vân Trường, Trường Sinh (長生), là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông cũng là người đứng đầu trong số ngũ hổ tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.
Hoàng Trung, tự Hán Thăng , sinh năm 148, quê ở Nam Dương. Lúc đầu ông theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn (cháu Lưu Biểu) trấn thủ Trường Sa; về sau theo Hàn Huyền. Khi Lưu Bị đem quân đến lấy Kinh Châu, sai Quan Vũ đánh Trường Sa, chiếm được Trường Sa và tha không giết Hoàng Trung. Từ đó, Hoàng Trung theo về với Lưu Bị.
Mã Siêu sinh năm 176 tại Lũng Môn (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây). Ông là con trưởng của Mã Đằng, thứ sử Tây Lương. Mã Siêu được miêu tả trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, lúc ra trận mình mặc hổ phù, tay cầm trường thương, oai phong lẫm liệt vô cùng.
Năm 222, Mã Siêu bệnh mất, hưởng thọ 46 tuổi. Trước khi chết, ông viết thư cho Lưu Bị bảo rằng cả nhà ông bị Tào Tháo giết gần hết nên nhờ Lưu Bị chăm sóc cho em mình là Mã Đại là người cuối cùng của nhà họ Mã.
Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh, là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào giờ Tuất tháng 4 (Tam Quốc), tự Khổng Minh, Gia Cát (諸葛) là một họ kép ít gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".
Tháng 8 năm 236, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Võ Hầu nên đời thường gọi là Gia Cát Võ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiền đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.
Bàng Thống, tự Sỹ Nguyên (178-213), đạo hiệu Phượng Sồ tiên sinh, là quân sư nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, sống vào cuối thời nhà Hán, đầu thời Tam quốc, thường được người đời sau so sánh là tài năng ngang với Khổng Minh, người sống cùng thời với ông. Bàng Thống quê ở Tương Dương, được La Quán Trung miêu tả trong Tam quốc diễn nghĩa là "người mày rậm, mũi gồ, mặt đen, râu ngắn, hình dung xấu xí". Tư Mã Đức Tháo nhận xét về Bàng Thống như sau: "Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phụng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể định hưng được thiên hạ".
Ngụy Diên (魏延), (175-234) tự là Văn Trường (文長) là một tướng của Thục Hán trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Hoa. Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung. Sách "Tam Quốc ngoại truyện" cho rằng chính Nguỵ Diên bị Dương Nghi vu hãm, còn bản thân ông là người tốt. Sách Tam Quốc Diễn Nghĩa cũng xác minh điều này: sau khi Gia Cát Lượng chết, vua Thục là Lưu Thiện ở Thành Đô liên tiếp nhận biểu của cả Nguỵ Diên và Dương Nghi tố cáo nhau làm phản nên không phân biệt được phải trái. Sau khi Nguỵ Diên bị giết rồi, không lâu sau chính Dương Nghi cũng bị Lưu Thiện xử tử
Quan Bình chưa rõ năm sinh nhưng nếu căn cứ vào tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thì có thể ông sinh vào khoảng năm 190. Ông là người Hà Bắc. Thân phụ của ông là Quan Định, một người dân thường. Năm 200, Quan Vũ sau khi qua 5 ải, chém 6 tướng đến Hà Bắc tìm Lưu Bị thì ghé qua nhà Quan Định. Quan Định bèn xin Quan Vũ nhận Quan Bình theo. Quan Vũ chưa có con nên nhận Quan Bình làm con nuôi. Khi đó, Quan Bình mới 10 tuổi.
Tào Tháo ( tự là Mạnh Đức 155–220) là một nhân vật quan trọng ở thời Tam Quốc, là người đặt nên cơ sở cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung quốc, lập nên chính quyền nhà Ngụy.Tào Tháo nguyên gốc là họ Hạ Hầu. Cha ông là Hạ Hầu Tung, do làm con nuôi của một vị hoạn quan là Tào Đằng, nên đổi họ lại thành Tào Tung.
Tào Phi ( 187-29 tháng 6 năm 226), chính thức được gọi là Tào Ngụy Văn Đế , tên tự Tử Hoàn sinh ra ở huyện Tiêu, nước Bái (hiện nay là An Huy). Ông là con thứ hai của nhà chính trị và nhà thơ Trung Hoa Tào Tháo và là Hoàng đế đầu tiên và người sáng lập thực sự của Tào Ngụy (cũng gọi là "Nước Ngụy") Tào Phi, giống như cha mình, là một nhà thơ. Bài thơ Trung Hoa đầu tiên sử dụng thất ngôn thi là bài thơ Yến Ca Hành của Tào Phi. Ông cũng đã sáng tác hơn 100 bài thơ về nhiều chủ đề khác nhau.
Trương Liêu (169-222), tự là Văn Viễn là vị tướng quân đội của phe Đại Ngụy sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là 1 trong những vị tướng giỏi nhất của phe Đại Ngụy với sức khỏe và tài năng quân sự, từng tham gia nhiều trận đánh lớn và nổi tiếng qua trận Hợp Phì với quân Đông Ngô. Trương Liêu lúc đầu theo phục vụ dưới trướng Đinh Nguyên, một vị quan nhà Hán cùng Lữ Bố. Sau đó, Lữ Bố bị Đổng Trác dụ hàng nên Đinh Nguyên bị Lữ Bố giết, Trương Liêu về với Đổng Trác. Năm 189, Lữ Bố giết tiếp Đổng Trác, Trương Liêu trở thành tướng của Lữ Bố.
Tào Nhân (168 – 223) là một tướng quân dưới chướng Tào Tháo của nhà Ngụy vào thời Tam quốc.
Tào Nhân vốn là em họ của Tào Tháo. Cả ông và cha của Tào Nhân từng giữ vị trí quan trọng trong quân binh. Khi còn trẻ Tào Nhân hứng thú săn bắn và cưỡi ngựa. Trong những năm nổi loạn Khăn vàng ông từng dẫn đầu hơn ngàn người lính trẻ đi dẹp giặc loạn.Năm 190 Tào Nhân chiêu mộ binh sĩ đi chống lại Đổng Trác. Kể từ lúc này ông và binh lính của ông bắt đầu theo phò tá Tào Tháo.Ông qua đời năm 223, thọ 55 tuổi. Quân sĩ nhớ đến ông như một tướng quân trung thành, nghiêm khắc và tận tụy hết mình.
| |
| | |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét